Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 02-01-2018 9:11am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
Nguồn: George R. Saade et al., 2017. Cervical funneling or intra-amniotic debris and preterm birth among nulliparous women with a midtrimester cervical length less than 30mm. Article in press, Ultrasound of Obstetrics and Gynecology.
Doi: 10.1002/uog. 18960
 
Cho đến nay, sinh non vẫn là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh tật và tử vong chu sinh trên toàn thế giới. Gần 1/3 trẻ bại não do sinh non, chưa kể đến khiếm thị, suy hô hấp và các tai biến khác. Dự phòng sinh non gần như là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lâm sàng khi đối diện vấn đề này. Các phương pháp dự phòng sinh non vẫn được tiếp tục nghiên cứu và liên tục cập nhật dữ liệu. Sử dụng progesterone, vòng nâng cổ tử cung hay khâu cổ tử cung là những biện pháp được quan tâm nhất hiện nay. Trong những phương pháp dự phòng đó đều không thể thiếu siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử cung (CTC) đánh giá nguy cơ.
 
Một nghiên cứu vừa công bố trên tạp chí chuyên ngành siêu âm Sản Phụ khoa, nhằm đánh giá sự hiện diện của cặn ối hay bùn ối (intra-amniotic debris hay amniotic sludge), dạng kênh cổ tử cung hình phễu ở ba tháng giữa thai kỳ và tỷ lệ sinh non ở phụ nữ mang thai lần đầu.
 


Nguồn: A. C. Fleischer và cs., Sonography in Obstetrics and Gynecology: Principles and Practice, 7nd edition – www.accessmedicine.com
 
Nghiên cứu đoàn hệ này khảo sát trên hơn 650 thai kỳ đơn thai, mẹ mang thai lần đầu, có chiều dài kênh CTC ngắn hơn 30mm ở tuổi thai 16-22 tuần. Khi siêu âm ngả âm đạo đo chiều dài kênh CTC sẽ đánh giá thêm dạng kênh CTC hình phễu và xác định sự hiện diện của cặn ối – được định nghĩa là dịch ối có hồi âm dạng mảng hay nốt. Những trường hợp đủ tiêu chuẩn nhận sẽ được ngẫu nhiên phân bố vào nhóm sử dụng 17-alpha hydroxyprogesterone caproate hay giả dược.

Kết quả: trong số 657 thai phụ được nghiên cứu, có 112 (17%) trường hợp kênh CTC hình phễu; 33 (5%) trường hợp có cặn ối và 45 (7%) trường hợp có cả hai dấu hiệu. Những thai phụ vừa có cặn ối vừa có kênh CTC hình phễu thì chiều dài kênh CTC ngắn hơn các nhóm còn lại (19,5mm so với 25,6mm, p< 0,001).

Tỷ lệ sinh non trước 37 tuần, 34 tuần và 32 tuần ở nhóm kênh CTC hình phễu cao hoặc có cặn ối cao hơn (lần lượt có tỷ lệ 37% so với 21%, OR 2,2, 95% CI 1,5-3,3 – 35% so với 23%, OR 1,7, 95% CI 1,1-2,9).

Sau khi hiệu chỉnh đa biến bao gồm cả yếu tố chiều dài kênh CTC, tỷ lệ sinh non trước 34 tuần và 32 tuần tăng gần gấp đôi và gấp ba khi có sự hiện diện của cặn ối hay bùn ối (tỷ lệ lần lượt ở tuổi thai 32 tuần và 34 tuần là aOR 1,85, 95% CI 1,00-3,44; aOR 2,78, 95% CI 1,42 – 5,45) nhưng lại không liên quan đến dạng kênh CTC hình phễu.

Nghiên cứu kết luận, ở những thai phụ mang thai lần đầu, đơn thai có chiều dài kênh CTC < 30mm, sự hiện diện của cặn ối hay bùn ối tăng nguy cơ sinh non trước 34 tuần. Yếu tố mới này có thể góp thêm thông tin trong dự đoán nguy cơ sinh non.

Lược dịch: BS Lê Tiểu My - Bệnh viện Mỹ Đức

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK