Tin tức
on Thursday 19-10-2017 2:25pm
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. BS Hê Thanh Nhã Yến
Màng ối là lớp màng mỏng nhưng rất chắc chắn, nằm ở mặt trong bánh nhau, hướng về thai, không chỉ để bảo vệ mà còn có chức năng kháng viêm, kháng khuẩn. Lẽ tự nhiên, khi màng ối tổn thương hay vỡ, đội quân vi khuẩn khá hùng mạnh từ âm đạo có cơ hội tấn công vào khoang ối vốn “kín như bưng”, gây nhiễm trùng ối và chuyển dạ sinh non. Câu hỏi đặt ra là liệu khi màng ối còn nguyên vẹn, có cơ may nào cho vi khuẩn xâm nhập vào khoang ối hay không?
Một nghiên cứu khá thú vị được tiến hành để bước đầu hé mở câu trả lời. Các tác giả đánh giá tỉ lệ và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng ối trong những trường hợp chuyển dạ sinh non xảy ra ở song thai mà màng ối còn nguyên vẹn. Kyung Joon và cộng sự tiến hành hút dịch ối của cả 2 khoang ối của song thai ở 90 phụ nữ có chuyển dạ sinh non từ 20 đến 34 6/7 tuần. Chẩn đoán chuyển dạ sinh non được xác lập khi thai phụ có cơn co tử cung gây đau, với tần số ít nhất 2 cơn trong 10 phút và cần nhập viện. Nước ối được cấy và xét nghiệm định lượng nồng độ chất metrix metalloproteinase-8, với ngưỡng > 23 ng/ml được xem là có nhiễm trùng ối.
Kết quả cho thấy, tỉ lệ được chẩn đoán nhiễm trùng ối trong ít nhất 1 khoang ối là 39% (25 trong 90 ca), trong đó có 9 ca chiếm 10% có kết quả cấy dương tính. 22 trường hợp được chẩn đoán nhiễm trùng ối trong cả 2 khoang ối. Các thai phụ đều được theo dõi đến sau sinh. Nhóm phụ nữ được chẩn đoán nhiễm trùng ối và cấy âm tính có tỉ lệ kết cuộc xấu cao hơn nhóm không nhiễm trùng và cấy âm tính. Trong khi đó, không có sự khác biệt giữa 2 nhóm có nhiễm trùng ối với kết quả cấy âm tính hoặc dương tính.
Như vậy, theo nghiên cứu này, tỉ lệ được chẩn đoán nhiễm trùng ối ở phụ nữ mang song thai có chuyển dạ sinh non còn màng ối nguyên vẹn là 39% và đây là yếu tố nguy cơ tăng tỉ lệ các kết cục không tốt cho thai kỳ.
Nguồn: Kyung Joon Oh, Roberto Romero, The frequency and clinical signigicance of intra-amniotic inflammation in twin pregnancies with preterm labor and intact membranes, The journal of Maternal-Fetal & Neonatal Medicine, 2017 Oct 11:1-15. doi: 10.1080/14767058.2017.1384460
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tóm lược khuyến cáo tháng 10 năm 2017 trong quản lý băng huyết sau sinh của Hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ - Ngày đăng: 03-10-2017
Sự phát triển của trẻ sinh non và các ảnh hưởng của môi truờng chăm sóc - Ngày đăng: 21-09-2017
Trẻ sinh nhẹ cân liên quan đến các bệnh lý tim mạch trong tuơng lai - Ngày đăng: 21-09-2017
Progesterone đặt âm đạo giảm nguy cơ sinh non ở thai kỳ song thai kênh cổ tử cung ngắn - Ngày đăng: 19-09-2017
Sự phát triển của trẻ sinh non và các ảnh hưởng của môi truờng chăm sóc - Ngày đăng: 19-09-2017
Phụ nữ Châu Á có tỷ lệ tăng PROGESTERONE sớm nhiều hơn so với các chủng tộc khác khi kích thích buồng trứng làm thụ tinh trong ống nghiệm và tính đa hình của kiểu GEN - Ngày đăng: 06-09-2017
Tầm soát CHLAMYDIA TRACHOMATIS ở phụ nữ - Ngày đăng: 06-09-2017
Nghiên cứu mới về vai trò của MAGNESIUM SULFATE sau sinh - Ngày đăng: 06-09-2017
Nguy cơ gì cho thai khi cha dùng METHOTREXATE trong vòng 90 ngày trước khi thụ thai? - Ngày đăng: 06-09-2017
Mối liên quan giữa tiền sản giật và chứng suy giảm nhận thức - Ngày đăng: 06-09-2017
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK