Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 23-12-2017 4:58pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế


Hình 1. Biểu đồ dự đoán khả năng sinh 1 trẻ sống dựa trên tuổi và số noãn trưởng thành
 
Trữ lạnh noãn ngày càng trở nên phổ biến do nhiều phụ nữ ngày càng trì hoãn việc lập gia đình. Bằng cách trữ lạnh noãn khi tuổi còn trẻ, phụ nữ hi vọng có thể tối ưu hoá khả năng sinh sống của mình khi sử dụng noãn rã đông trong tương lai. Câu hỏi thường được đặt ra là số lượng noãn cần trữ bao nhiêu là đủ để có thể đạt số con sinh sống mong muốn, hoặc cần làm bao nhiêu chu kỳ kích thích buồng trứng để tăng khả năng sinh sống.
 
Một nghiên cứu hồi cứu tiến hành trên 520 chu kì chuyển phôi tươi tự thân đầu tiên của những bệnh nhân điều trị TTON từ tháng 1/2011 đến tháng 3/2015. Sử dụng hồi qui tuyến tính Poisson để thiết lập công thức dự đoán đồng thời sử dụng các kết quả của các nghiên cứu trước đó để xác định tỉ lệ sống của noãn sau rã theo độ tuổi: 95% cho bệnh nhân (BN) dưới 36 tuổi, 85% cho BN 36 tuổi (ASRM., 2013; Cobo et al., 2016), tỉ lệ phôi nang euploid (Ata et al., 2012) cũng như tỉ lệ trẻ sinh sống từ phôi nang euploid (Forman et al., 2013, 2014). Tỷ lệ hình thành phôi nang, độ tuổi và số lượng noãn trưởng thành được sử dụng để xây dựng mô hình dự đoán xác suất có 1, 2 hoặc 3 trẻ sinh sống. Nhóm nghiên cứu giả định kết quả từ mỗi chu kỳ chuyển phôi là độc lập về mặt thống kê và khoảng 60% phôi nang bình thường sau khi chuyển dẫn đến 1 trẻ sinh sống (Forman và cộng sự, 2013, 2014; Schoolcraft và Katz-Jaffe, 2013; Scott và cộng sự, 2013, Fiorentino và cộng sự, 2014). Tất cả các phân tích thống kê đã được thực hiện bằng cách sử dụng Matlab (vs. R2015a, MathWorks, Natick MA).

Kết quả nghiên cứu đã thiết lập được công thức dự đoán tỉ lệ trẻ sinh sống dựa theo độ tuổi và số noãn MII trữ lạnh (hình 1). Ưu điểm của nghiên cứu này so với các nghiên cứu trước đó của Cobo (Cobo et al., 2016) và của Doyle (Doyle et al., 2016) là có kết hợp với đặc tính phôi đơn bội để dự đoán kết quả, đồng thời phân tích hiệu quả trên tuổi cụ thể của bệnh nhân thay vì trên từng nhóm tuổi. Thêm vào đó, công thức dự đoán trên có thể áp dụng ở nhiều trung tâm dựa trên tỉ lệ sinh sống của phôi nang bình thường và tỉ lệ sống của noãn sau rã ở từng trung tâm. Tuy nhiên nghiên cứu vẫn còn một số điểm hạn chế gồm: mô hình tiên đoán sinh sống này được thiết kế dựa trên dữ liệu hồi cứu trên nhóm bệnh nhân thực hiện TTON và có dự trữ buồng trứng bình thường nên tỉ lệ dự đoán có thể thấp hơn mức mong đợi khi áp dụng với nhóm bệnh nhân trữ trứng chủ động không có các yếu tố vô sinh, hoặc nhóm bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng. Mặt khác, cỡ mẫu ở nhóm bệnh nhân trên 38 tuổi nhỏ.

 
Trần Tú Cầm – Chuyên viên phôi học

Nguồn: Predicting the likelihood of live birth for elective oocyte cryopreservation: a counseling tool for physicians and patients. Human Reproduction, Vol.32, No.4 pp. 853–859, 2017.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK