Tin tức
on Thursday 02-07-2015 5:33pm
Danh mục: Tin quốc tế
Theo kết quả một nghiên cứu vừa được công bố trực tuyến ngày 25 tháng 5 trên tạp chí Pediatrics, ở trẻ dưới 3 tháng tuổi, xét nghiệm phân tích nước tiểu thường quy (PTNTTQ) có độ nhạy cao hơn các đánh giá trước đây trong việc xác định nhiễm trùng tiểu (NTT).
Theo hướng dẫn về NTT của Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ năm 2011, trẻ được chẩn đoán NTT khi có một kết quả PTNTTQ bất thường kèm với kết quả cấy nước tiểu dương tính, tuy nhiên, những hướng dẫn này không bao gồm các trẻ nhũ nhi < 2 tháng. Trong khi đó, trẻ nhũ nhi nhỏ có kết quả PTNTTQ âm tính kèm kết quả cấy nước tiểu dương tính vẫn thường được xem là có NTT.
Để mô tả tốt hơn độ chính xác của xét nghiệm PTNTTQ, Alan R. Schroeder, hiện đang làm việc tại khoa Nhi, trung tâm y khoa Santa Clara Valley, San Jose, California, cùng các cộng sự của mình đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang trên các trẻ nhũ nhi < 3 tháng bị nhiễm trùng tiểu đưa đến du khuẩn huyết (NTTDKH). Theo các tác giả, NTTDKH đại diện cho một mô hình lý tưởng để đánh giá độ nhạy của xét nghiệm phân tích nước tiểu, bởi lẽ nhiễm khuẩn cùng một tác nhân trong máu và nước tiểu ít có khả năng là ngoại nhiễm hoặc nhiễm trùng tiểu không triệu chứng, chính nhờ đó giảm đến mức tối thiểu các kết quả dương tính giả.
Các nhà nghiên cứu thu thập kết quả PTNTTQ và cấy nước tiểu từ các trẻ NTTDKH được điều trị tại 11 bệnh viện khác nhau. Độ nhạy của PTNTTQ được tính dựa trên số liệu từ 245 trẻ có ít nhất một kết quả phân tích nước tiểu và ≥ 50.000 khúm vi khuẩn/mL trên kết quả cấy nước tiểu. Độ đặc hiệu được tính thông qua phân tích kết quả xét nghiệm PTNTTQ từ 115 trẻ nhũ nhi có kết quả cấy nước tiểu âm tính được chọn ngẫu nhiên.
Kết quả cho thấy:
· Độ nhạy của leukocyte esterase (phát hiện sự hiện diện bạch cầu trong nước tiểu) là 97,6% (độ tin cậy 95%, 94,5%-99,2%)
· Độ nhạy của tiểu bạch cầu (nhiều hơn ba bạch cầu trên quang trường 40) là 96% (độ tin cậy 95%; 92,5%-98,1%)
· Chỉ có một trẻ NTTDKH (liên cầu nhóm B) có kết quả PTNTTQ hoàn toàn âm tính
· Ở những trẻ có kết quả cấy nước tiểu âm tính, độ đặc hiệu của leukocyte esterase là 93,9% (độ tin cậy 95%; 87,9% - 97,5%), và tiểu mủ là 91,3% (độ tin cậy 95%; 84,6% - 95,6%)
Khi so sánh với các báo cáo trước đây về tỷ lệ nhiễm trùng tiểu không triệu chứng và tỷ lệ nhiễm trùng tiểu kèm sốt ở trẻ nhũ nhi, các tác giả cho rằng chính NTT không triệu chứng chịu trách nhiệm cho độ nhạy thấp của tiểu bạch cầu so với cấy nước tiểu. Thật vậy, kết quả từ nghiên cứu trên đã cho thấy độ nhạy của tiểu bạch cầu thay đổi từ 96% đến 99,5% (tùy thuộc vào định nghĩa tiểu bạch cầu), chứng tỏ thông số này thực sự hữu dụng trong chẩn đoán.
Ở những trẻ < 3 tháng có sốt, NTT là một trong những nhiễm khuẩn nghiêm trọng nhất. Một khi đã được chẩn đoán, bệnh nhi sẽ cần phải nhập viện để điều trị kháng sinh dài ngày và theo dõi bằng những xét nghiệm hình ảnh hệ niệu. Nghiên cứu trên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định vai trò xét nghiệm PTNTTQ ở trẻ nhũ nhi nghi ngờ NTT, từ đó giúp giảm thiểu không chỉ tác hại của bệnh mà còn giảm cả chi phí điều trị thường khá đắt đỏ.
Theo hướng dẫn về NTT của Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ năm 2011, trẻ được chẩn đoán NTT khi có một kết quả PTNTTQ bất thường kèm với kết quả cấy nước tiểu dương tính, tuy nhiên, những hướng dẫn này không bao gồm các trẻ nhũ nhi < 2 tháng. Trong khi đó, trẻ nhũ nhi nhỏ có kết quả PTNTTQ âm tính kèm kết quả cấy nước tiểu dương tính vẫn thường được xem là có NTT.
Để mô tả tốt hơn độ chính xác của xét nghiệm PTNTTQ, Alan R. Schroeder, hiện đang làm việc tại khoa Nhi, trung tâm y khoa Santa Clara Valley, San Jose, California, cùng các cộng sự của mình đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang trên các trẻ nhũ nhi < 3 tháng bị nhiễm trùng tiểu đưa đến du khuẩn huyết (NTTDKH). Theo các tác giả, NTTDKH đại diện cho một mô hình lý tưởng để đánh giá độ nhạy của xét nghiệm phân tích nước tiểu, bởi lẽ nhiễm khuẩn cùng một tác nhân trong máu và nước tiểu ít có khả năng là ngoại nhiễm hoặc nhiễm trùng tiểu không triệu chứng, chính nhờ đó giảm đến mức tối thiểu các kết quả dương tính giả.
Các nhà nghiên cứu thu thập kết quả PTNTTQ và cấy nước tiểu từ các trẻ NTTDKH được điều trị tại 11 bệnh viện khác nhau. Độ nhạy của PTNTTQ được tính dựa trên số liệu từ 245 trẻ có ít nhất một kết quả phân tích nước tiểu và ≥ 50.000 khúm vi khuẩn/mL trên kết quả cấy nước tiểu. Độ đặc hiệu được tính thông qua phân tích kết quả xét nghiệm PTNTTQ từ 115 trẻ nhũ nhi có kết quả cấy nước tiểu âm tính được chọn ngẫu nhiên.
Kết quả cho thấy:
· Độ nhạy của leukocyte esterase (phát hiện sự hiện diện bạch cầu trong nước tiểu) là 97,6% (độ tin cậy 95%, 94,5%-99,2%)
· Độ nhạy của tiểu bạch cầu (nhiều hơn ba bạch cầu trên quang trường 40) là 96% (độ tin cậy 95%; 92,5%-98,1%)
· Chỉ có một trẻ NTTDKH (liên cầu nhóm B) có kết quả PTNTTQ hoàn toàn âm tính
· Ở những trẻ có kết quả cấy nước tiểu âm tính, độ đặc hiệu của leukocyte esterase là 93,9% (độ tin cậy 95%; 87,9% - 97,5%), và tiểu mủ là 91,3% (độ tin cậy 95%; 84,6% - 95,6%)
Khi so sánh với các báo cáo trước đây về tỷ lệ nhiễm trùng tiểu không triệu chứng và tỷ lệ nhiễm trùng tiểu kèm sốt ở trẻ nhũ nhi, các tác giả cho rằng chính NTT không triệu chứng chịu trách nhiệm cho độ nhạy thấp của tiểu bạch cầu so với cấy nước tiểu. Thật vậy, kết quả từ nghiên cứu trên đã cho thấy độ nhạy của tiểu bạch cầu thay đổi từ 96% đến 99,5% (tùy thuộc vào định nghĩa tiểu bạch cầu), chứng tỏ thông số này thực sự hữu dụng trong chẩn đoán.
Ở những trẻ < 3 tháng có sốt, NTT là một trong những nhiễm khuẩn nghiêm trọng nhất. Một khi đã được chẩn đoán, bệnh nhi sẽ cần phải nhập viện để điều trị kháng sinh dài ngày và theo dõi bằng những xét nghiệm hình ảnh hệ niệu. Nghiên cứu trên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định vai trò xét nghiệm PTNTTQ ở trẻ nhũ nhi nghi ngờ NTT, từ đó giúp giảm thiểu không chỉ tác hại của bệnh mà còn giảm cả chi phí điều trị thường khá đắt đỏ.
(Nguồn: www.medscape.com/viewarticle/845309?nlid=81846_2046&src=wnl_edit_medn_peds&uac=131105SK&spon=9)
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sống ở vùng cao có liên quan đến hội chứng đột tử ở trẻ nhũ nhi - Ngày đăng: 02-07-2015
Sử dụng GLYBURIDE trong thai kỳ mang lại nhiều nguy cơ ở trẻ sơ sinh hơn so với INSULIN - Ngày đăng: 03-06-2015
METOCLOPRAMIDE và DIPHENHYDRAMINE giúp giảm đau đầu ở phụ nữ mang thai - Ngày đăng: 03-06-2015
Phương pháp làm lạnh tử cung giúp giảm chảy máu trong sinh mổ - Ngày đăng: 03-06-2015
Hệ miễn dịch của trẻ bị suy yếu đến 3 năm sau khi mắc sởi - Ngày đăng: 25-05-2015
Các bé gái mắc rối loạn tự kỷ chịu nhiều tổn thương hơn các bé trai - Ngày đăng: 21-05-2015
Các bác sĩ đang chịu áp lực từ phía các bậc phụ huynh trong việc trì hoãn tiêm chủng cho trẻ - Ngày đăng: 19-05-2015
Ung thư buồng trứng làm gia tăng nguy cơ mắc các loại ung thư khác - Ngày đăng: 18-05-2015
Trẻ sơ sinh rất nhẹ cân tăng nguy cơ mắc các bệnh lý tâm thần về sau - Ngày đăng: 09-05-2015
Nồng độ hormone giáp ở mức bình thường – cao trong lúc mang thai có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của não bộ thai nhi - Ngày đăng: 04-05-2015
Đa ối và kết cuộc xấu trong thai kỳ - Ngày đăng: 29-04-2015
Cha mẹ hút thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch cho trẻ về sau - Ngày đăng: 28-04-2015
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK