Tin tức
on Thursday 04-11-2021 5:14pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Dương Nguyễn Duy Tuyền- IVFMD Bình Dương
Hormone sinh dục đóng một vai trò thiết yếu trong việc khởi động và duy trì chức năng sinh sản của nam giới. Các hormone FSH, LH, testosterone và inhibin B được coi là có liên quan đến khả năng sinh tinh và khả năng thụ tinh của nam giới. Tuy nhiên, nồng độ FSH có sự trùng lặp rộng rãi ở nhóm sinh tinh bình thường và nhóm giảm sinh tinh làm ảnh hưởng đến khả năng dự đoán chính xác của FSH. Inhibin B là một hormon glycoprotein sinh dục từ siêu họ yếu tố tăng trưởng biến đổi-beta (TGF-β); là đồng dạng chiếm ưu thế và cũng là protein ức chế duy nhất có trong huyết thanh nam giới. Inhibin B được tiết ra chủ yếu bởi các tế bào Sertoli và ức chế sự sản xuất FSH tuyến yên thông qua cơ chế phản hồi âm liên quan đến tế bào sinh dục. Inhibin B cũng có vai trò cận tiết trong tinh hoàn. Do vậy inhibin B cũng phản ánh được chức năng của tinh hoàn.
Khả năng dự đoán quá trình sinh tinh của inhibin B vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Một số nghiên cứu cho rằng inhibin B và FSH là các dấu hiệu đáng tin cậy về chất lượng tinh dịch và là công cụ bổ sung để chẩn đoán nam khoa cũng như tình trạng của tuyến sinh dục nam. Kumanov và cộng sự đề xuất rằng inhibin B có tương quan chặt chẽ với các thông số tinh dịch hơn là FSH. Inhibin B trong huyết thanh đã được chứng minh là có tương quan thuận đến quá trình sinh tinh. Jørgensen N và cộng sự cho rằng nồng độ inhibin B trong huyết thanh ở những người đàn ông có khả năng sinh sản có mối tương quan chặt chẽ với số lượng tinh trùng thấp.
Thất bại khi trích tinh trùng từ mào tinh (PESA) hoặc từ tinh hoàn (TESE) có thể gây ra những căng thẳng về tâm lý và thể chất cũng như khó khăn về tài chính cho bệnh nhân. Do vậy, yếu tố dự đoán khả năng thành công cho việc trích tinh trùng là quan trọng. Một số nghiên cứu cho thấy rằng inhibin B có thể dự đoán sự hiện diện của tinh trùng ở tinh hoàn ở nam giới vô tinh không bế tắc trong khi một số nghiên cứu khác cho thấy inhibin B thất bại trong việc dự đoán sự hiện diện của tinh trùng ở nam giới vô tinh. Hầu hết các nghiên cứu đều dựa trên số lượng ít nam giới vô tinh.
Do dữ liệu còn nhiều hạn chế và mâu thuẫn, cần có nhiều nghiên cứu về inhibin B, các hormone khác liên quan đến khả năng sinh sản, chất lượng tinh dịch và tuổi của nam giới vô sinh ở quy mô lớn. Bên cạnh đó, khoảng tham chiếu đáng tin cậy và ngưỡng đối với inhibin B huyết thanh trong thực hành lâm sàng chưa được thiết lập vì ảnh hưởng bởi phương pháp đo lường và tuổi. Mặc dù một số nghiên cứu đã khảo sát nồng độ inhibin B, nhưng phạm vi tham chiếu rộng và mức độ liên quan ít nên việc sử dụng inhibin B trong lâm sàng còn nhiều hạn chế. Do vậy, Wang và cộng sự (2019) đã tiến hành nghiên cứu thiết lập khoảng tham chiếu bình thường đối với inhibin B huyết thanh trên dân số Trung Quốc ở quy mô lớn nhằm mục đích: a) thiết lâp khoảng tham chiếu và ngưỡng của inhibin B trên nam giới Trung Quốc bình thường và hiếm muộn; b) mối tương quan giữa giá trị hormone (đặc biệt là inhibin B) với tuổi và chất lượng tinh trùng trên 30.613 nam giới; c) dự đoán ảnh hưởng của nồng độ inhibin B lên việc đánh gía sự hiện diện của tinh trùng ở bệnh nhân vô tinh.
Nghiên cứu hồi cứu này đã đánh giá nồng độ inhibin B trong huyết thanh của 30.613 nam giới từ các cặp vợ chồng hiếm muộn đã đến khám tại khoa ngoại trú của Bệnh viện Di truyền và Sinh sản CITIC-Xiangya từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019. Các bệnh nhân đã được đăng ký điều trị tại bệnh viện sau khi thất bại mang thai ít nhất một năm sau khi quan hệ tình dụng không bảo vệ. Các dữ liệu được trích xuất bao gồm tuổi, thời gian kiêng xuất tinh, nồng độ inhibin B, FSH và testosteron; kết quả PESA và TESE trên tất cả bệnh nhân. TESE được thực hiện bằng cách cắt một mảnh tinh hoàn nhỏ và thực hiện trên bệnh nhân vô tinh không bế tắc. PESA được thực hiện bằng cách hút tinh trùng từ mào tinh qua da trên bệnh nhân vô tinh do tắc. Tất cả những trường hợp không được nhận vào nghiên cứu bao gồm: hồ sơ không đầy đủ, bệnh mãn tính nặng, nhiễm trùng gần ngày tham gia nghiên cứu, bất thường hệ thống sinh sản (tinh hoàn ẩn, thiếu hụt androgen, giãn tĩnh mạch nặng và tổn thương tinh hoàn), rối loạn di truyền đã biết (gen/NST); và phơi nhiễm với các yếu tố vật lý và hóa học ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh sản đã biết. Nhóm tinh trùng bình thường (nhóm tham khảo) có tổng số tinh trùng >= 39 triệu tinh trùng/lần xuất tinh và di động tiến tới >=32%; nam với bất thường chỉ số tinh trùng theo WHO 2010. Nghiên cứu đã được thông qua hội đồng đạo đức.
Bệnh nhân được lấy máu từ 8:00- 11:00 sáng và tách huyết thanh để xác định nồng độ các hormone. Inhibin B được đo với bộ công cụ chẩn đoán để phát hiện định lượng Inhibin B (ELISA) (Kangrun Biotech, Quảng Châu, Trung Quốc). Phạm vi dao động của đường chuẩn là 10-1500 pg / mL (r ≥ 0,9900); hệ số biến động giữa kỳ lần lượt là ≤10% và ≤ 15%. Độ nhạy lý thuyết của phương pháp là 10 pg /mL. FSH và testosterone được xét nghiệm bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch kiểu bánh sandwich hai bước (Roche E-602 nền tảng Elecsys tự động, Roche Diagnostics, Mannheim, Đức). Phạm vi phát hiện FSH và testosterone của xét nghiệm lần lượt là 0,100-200 IU/l và 0,087-52,1 nmol/l. Các hệ số biến động trong và giữa kỳ (CV) là <5%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị ngưỡng của inhibin B là 87,42 pg/ml và trong khoảng 87,42-299,93 pg/ml ở nam giới bình thường. Các trường hợp có ít nhất 1 chỉ số tinh dịch bất thường với vô tinh, ít tinh trùng, tinh trùng yếu và OAT có nồng độ inhibin B < 87,42 pg/ml.
Mối tương quan giữa inhibin B và tuổi không rõ ràng. Ở nhóm nam có tinh dịch bình thường (n=25.481), inhibin B có tương quan nghịch với với tuổi (r = −0,111; P < 0,001). Ở nhóm từ 30 đến 40 tuổi, không có sự khác biệt về nồng độ inhibin B (r = −0,069; P <001). Inhibin B ở nam giới ≤ 20 có xu hướng cao hơn và inhibin B ở nam giới > 50 tuổi có xu hướng thấp hơn nhưng sự khác biệt không đạt được ý nghĩa thống kê. Lý do có thể là do số lượng nam giới có chỉ số tinh dịch bình thường ở nhóm tuổi này tương đối thấp (n = 6 và n = 176, tương ứng).
Inhibin B có tương quan thuận trong khi FSH có tương quan nghịch với tổng số tinh trùng. Trong trường hợp tổng số tinh trùng ≤ 10 triệu, inhibin B (r = 0,264) có tương quan mạnh mẽ với tổng số tinh trùng khi so với FSH (r = −0,161) hoặc tỷ lệ inhibin B: FSH (r = 0,170). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy inhibin B có tương quan gần với tổng số tinh trùng hơn FSH và testosteron.
Phân tích ROC được thực hiện để xác định các giá trị tối ưu của inhibin B, FSH và tỷ lệ inhibin B: FSH để đánh giá kết quả thu nhận tinh trùng từ bệnh nhân vô tinh cho thấy điểm cắt tốt nhất giá trị của inhibin B để dự đoán kết quả thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn / mào tinh là > 77,72 pg/mL (độ nhạy = 59,14%, độ đặc hiệu = 92,00% và AUC (KTC 95%) = 0,801 (0,764-0,834). 58,60% bệnh nhân vô tinh có nồng độ inhibin B ≤ 77,72 và 92% bệnh nhân có ít tinh trùng hoặc số lượng tinh trùng bình thường có nồng độ inhibin B >77,72 pg/ml. 19,29% bệnh nhân không thu nhận được tinh trùng từ tinh hoàn có nồng độ inhibin B cao hơn giá trị ngưỡng. Giá trị dự đoán của inhibin B chủ yếu ổn định trong các tình huống khác nhau, nhưng không có sự khác biệt về mặt thống kê. Tuy nhiên, tỷ lệ inhibin B: FSH (ngưỡng giá trị > 6,98, độ nhạy = 56,99%, độ đặc hiệu = 96,00%, AUC = 0,814) có giá trị tiên lượng tốt hơn chỉ dùng inhibin B hoặc FSH trong việc dự đoán kết quả thu nhận tinh trùng.
Như vậy inhibin B có tương quan yếu với tuổi, tương quan thuận với tổng sống tinh trùng và có độ nhạy cao trong việc dự đoán khả năng sinh tinh bình thường hơn FSH. Inhibin B có tương quan mạnh với số lượng tinh trùng ít và có xu hướng ít ảnh hưởng khi tổng số tinh trùng tăng lên. Inhibin B không có tương quan nhiều với khả năng di động của tinh trùng. Giá trị ngưỡng của inhibin B là 77,72 pg/ml. Tỷ lệ inhibin B:FSH có vai trò quan trọng trong việc dự đoán sự hiện diện của tinh trùng trước khi PESA/TESE và được coi là công cụ bổ sung trong việc đánh giá sức khỏe sinh sản của nam giới. Một phạm vi tham chiếu mới cho inhin B huyết thanh đã được thiết lập ở Trung Quốc, tuy nhiên, cả inhibin B và FSH trong huyết thanh cũng như tỷ lệ của chúng đều không đủ để xác định chắc chắn khả năng thành công khi thu nhận tinh trùng từ mào tinh hoặc tinh hoàn.
Nguồn: Wang J, Lu N, Zhang S, Tang Z, Huang Y, Li W, Liu G. Reference range and cutoff value of serum inhibin B to predict successful sperm retrieval: A cross-sectional study of 30 613 Chinese men. Clin Endocrinol (Oxf). 2020 Mar;92(3):232-240. doi: 10.1111/cen.14138. Epub 2019 Dec 15. PMID: 31793003.
Hormone sinh dục đóng một vai trò thiết yếu trong việc khởi động và duy trì chức năng sinh sản của nam giới. Các hormone FSH, LH, testosterone và inhibin B được coi là có liên quan đến khả năng sinh tinh và khả năng thụ tinh của nam giới. Tuy nhiên, nồng độ FSH có sự trùng lặp rộng rãi ở nhóm sinh tinh bình thường và nhóm giảm sinh tinh làm ảnh hưởng đến khả năng dự đoán chính xác của FSH. Inhibin B là một hormon glycoprotein sinh dục từ siêu họ yếu tố tăng trưởng biến đổi-beta (TGF-β); là đồng dạng chiếm ưu thế và cũng là protein ức chế duy nhất có trong huyết thanh nam giới. Inhibin B được tiết ra chủ yếu bởi các tế bào Sertoli và ức chế sự sản xuất FSH tuyến yên thông qua cơ chế phản hồi âm liên quan đến tế bào sinh dục. Inhibin B cũng có vai trò cận tiết trong tinh hoàn. Do vậy inhibin B cũng phản ánh được chức năng của tinh hoàn.
Khả năng dự đoán quá trình sinh tinh của inhibin B vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Một số nghiên cứu cho rằng inhibin B và FSH là các dấu hiệu đáng tin cậy về chất lượng tinh dịch và là công cụ bổ sung để chẩn đoán nam khoa cũng như tình trạng của tuyến sinh dục nam. Kumanov và cộng sự đề xuất rằng inhibin B có tương quan chặt chẽ với các thông số tinh dịch hơn là FSH. Inhibin B trong huyết thanh đã được chứng minh là có tương quan thuận đến quá trình sinh tinh. Jørgensen N và cộng sự cho rằng nồng độ inhibin B trong huyết thanh ở những người đàn ông có khả năng sinh sản có mối tương quan chặt chẽ với số lượng tinh trùng thấp.
Thất bại khi trích tinh trùng từ mào tinh (PESA) hoặc từ tinh hoàn (TESE) có thể gây ra những căng thẳng về tâm lý và thể chất cũng như khó khăn về tài chính cho bệnh nhân. Do vậy, yếu tố dự đoán khả năng thành công cho việc trích tinh trùng là quan trọng. Một số nghiên cứu cho thấy rằng inhibin B có thể dự đoán sự hiện diện của tinh trùng ở tinh hoàn ở nam giới vô tinh không bế tắc trong khi một số nghiên cứu khác cho thấy inhibin B thất bại trong việc dự đoán sự hiện diện của tinh trùng ở nam giới vô tinh. Hầu hết các nghiên cứu đều dựa trên số lượng ít nam giới vô tinh.
Do dữ liệu còn nhiều hạn chế và mâu thuẫn, cần có nhiều nghiên cứu về inhibin B, các hormone khác liên quan đến khả năng sinh sản, chất lượng tinh dịch và tuổi của nam giới vô sinh ở quy mô lớn. Bên cạnh đó, khoảng tham chiếu đáng tin cậy và ngưỡng đối với inhibin B huyết thanh trong thực hành lâm sàng chưa được thiết lập vì ảnh hưởng bởi phương pháp đo lường và tuổi. Mặc dù một số nghiên cứu đã khảo sát nồng độ inhibin B, nhưng phạm vi tham chiếu rộng và mức độ liên quan ít nên việc sử dụng inhibin B trong lâm sàng còn nhiều hạn chế. Do vậy, Wang và cộng sự (2019) đã tiến hành nghiên cứu thiết lập khoảng tham chiếu bình thường đối với inhibin B huyết thanh trên dân số Trung Quốc ở quy mô lớn nhằm mục đích: a) thiết lâp khoảng tham chiếu và ngưỡng của inhibin B trên nam giới Trung Quốc bình thường và hiếm muộn; b) mối tương quan giữa giá trị hormone (đặc biệt là inhibin B) với tuổi và chất lượng tinh trùng trên 30.613 nam giới; c) dự đoán ảnh hưởng của nồng độ inhibin B lên việc đánh gía sự hiện diện của tinh trùng ở bệnh nhân vô tinh.
Nghiên cứu hồi cứu này đã đánh giá nồng độ inhibin B trong huyết thanh của 30.613 nam giới từ các cặp vợ chồng hiếm muộn đã đến khám tại khoa ngoại trú của Bệnh viện Di truyền và Sinh sản CITIC-Xiangya từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019. Các bệnh nhân đã được đăng ký điều trị tại bệnh viện sau khi thất bại mang thai ít nhất một năm sau khi quan hệ tình dụng không bảo vệ. Các dữ liệu được trích xuất bao gồm tuổi, thời gian kiêng xuất tinh, nồng độ inhibin B, FSH và testosteron; kết quả PESA và TESE trên tất cả bệnh nhân. TESE được thực hiện bằng cách cắt một mảnh tinh hoàn nhỏ và thực hiện trên bệnh nhân vô tinh không bế tắc. PESA được thực hiện bằng cách hút tinh trùng từ mào tinh qua da trên bệnh nhân vô tinh do tắc. Tất cả những trường hợp không được nhận vào nghiên cứu bao gồm: hồ sơ không đầy đủ, bệnh mãn tính nặng, nhiễm trùng gần ngày tham gia nghiên cứu, bất thường hệ thống sinh sản (tinh hoàn ẩn, thiếu hụt androgen, giãn tĩnh mạch nặng và tổn thương tinh hoàn), rối loạn di truyền đã biết (gen/NST); và phơi nhiễm với các yếu tố vật lý và hóa học ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh sản đã biết. Nhóm tinh trùng bình thường (nhóm tham khảo) có tổng số tinh trùng >= 39 triệu tinh trùng/lần xuất tinh và di động tiến tới >=32%; nam với bất thường chỉ số tinh trùng theo WHO 2010. Nghiên cứu đã được thông qua hội đồng đạo đức.
Bệnh nhân được lấy máu từ 8:00- 11:00 sáng và tách huyết thanh để xác định nồng độ các hormone. Inhibin B được đo với bộ công cụ chẩn đoán để phát hiện định lượng Inhibin B (ELISA) (Kangrun Biotech, Quảng Châu, Trung Quốc). Phạm vi dao động của đường chuẩn là 10-1500 pg / mL (r ≥ 0,9900); hệ số biến động giữa kỳ lần lượt là ≤10% và ≤ 15%. Độ nhạy lý thuyết của phương pháp là 10 pg /mL. FSH và testosterone được xét nghiệm bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch kiểu bánh sandwich hai bước (Roche E-602 nền tảng Elecsys tự động, Roche Diagnostics, Mannheim, Đức). Phạm vi phát hiện FSH và testosterone của xét nghiệm lần lượt là 0,100-200 IU/l và 0,087-52,1 nmol/l. Các hệ số biến động trong và giữa kỳ (CV) là <5%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị ngưỡng của inhibin B là 87,42 pg/ml và trong khoảng 87,42-299,93 pg/ml ở nam giới bình thường. Các trường hợp có ít nhất 1 chỉ số tinh dịch bất thường với vô tinh, ít tinh trùng, tinh trùng yếu và OAT có nồng độ inhibin B < 87,42 pg/ml.
Mối tương quan giữa inhibin B và tuổi không rõ ràng. Ở nhóm nam có tinh dịch bình thường (n=25.481), inhibin B có tương quan nghịch với với tuổi (r = −0,111; P < 0,001). Ở nhóm từ 30 đến 40 tuổi, không có sự khác biệt về nồng độ inhibin B (r = −0,069; P <001). Inhibin B ở nam giới ≤ 20 có xu hướng cao hơn và inhibin B ở nam giới > 50 tuổi có xu hướng thấp hơn nhưng sự khác biệt không đạt được ý nghĩa thống kê. Lý do có thể là do số lượng nam giới có chỉ số tinh dịch bình thường ở nhóm tuổi này tương đối thấp (n = 6 và n = 176, tương ứng).
Inhibin B có tương quan thuận trong khi FSH có tương quan nghịch với tổng số tinh trùng. Trong trường hợp tổng số tinh trùng ≤ 10 triệu, inhibin B (r = 0,264) có tương quan mạnh mẽ với tổng số tinh trùng khi so với FSH (r = −0,161) hoặc tỷ lệ inhibin B: FSH (r = 0,170). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy inhibin B có tương quan gần với tổng số tinh trùng hơn FSH và testosteron.
Phân tích ROC được thực hiện để xác định các giá trị tối ưu của inhibin B, FSH và tỷ lệ inhibin B: FSH để đánh giá kết quả thu nhận tinh trùng từ bệnh nhân vô tinh cho thấy điểm cắt tốt nhất giá trị của inhibin B để dự đoán kết quả thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn / mào tinh là > 77,72 pg/mL (độ nhạy = 59,14%, độ đặc hiệu = 92,00% và AUC (KTC 95%) = 0,801 (0,764-0,834). 58,60% bệnh nhân vô tinh có nồng độ inhibin B ≤ 77,72 và 92% bệnh nhân có ít tinh trùng hoặc số lượng tinh trùng bình thường có nồng độ inhibin B >77,72 pg/ml. 19,29% bệnh nhân không thu nhận được tinh trùng từ tinh hoàn có nồng độ inhibin B cao hơn giá trị ngưỡng. Giá trị dự đoán của inhibin B chủ yếu ổn định trong các tình huống khác nhau, nhưng không có sự khác biệt về mặt thống kê. Tuy nhiên, tỷ lệ inhibin B: FSH (ngưỡng giá trị > 6,98, độ nhạy = 56,99%, độ đặc hiệu = 96,00%, AUC = 0,814) có giá trị tiên lượng tốt hơn chỉ dùng inhibin B hoặc FSH trong việc dự đoán kết quả thu nhận tinh trùng.
Như vậy inhibin B có tương quan yếu với tuổi, tương quan thuận với tổng sống tinh trùng và có độ nhạy cao trong việc dự đoán khả năng sinh tinh bình thường hơn FSH. Inhibin B có tương quan mạnh với số lượng tinh trùng ít và có xu hướng ít ảnh hưởng khi tổng số tinh trùng tăng lên. Inhibin B không có tương quan nhiều với khả năng di động của tinh trùng. Giá trị ngưỡng của inhibin B là 77,72 pg/ml. Tỷ lệ inhibin B:FSH có vai trò quan trọng trong việc dự đoán sự hiện diện của tinh trùng trước khi PESA/TESE và được coi là công cụ bổ sung trong việc đánh giá sức khỏe sinh sản của nam giới. Một phạm vi tham chiếu mới cho inhin B huyết thanh đã được thiết lập ở Trung Quốc, tuy nhiên, cả inhibin B và FSH trong huyết thanh cũng như tỷ lệ của chúng đều không đủ để xác định chắc chắn khả năng thành công khi thu nhận tinh trùng từ mào tinh hoặc tinh hoàn.
Nguồn: Wang J, Lu N, Zhang S, Tang Z, Huang Y, Li W, Liu G. Reference range and cutoff value of serum inhibin B to predict successful sperm retrieval: A cross-sectional study of 30 613 Chinese men. Clin Endocrinol (Oxf). 2020 Mar;92(3):232-240. doi: 10.1111/cen.14138. Epub 2019 Dec 15. PMID: 31793003.
Từ khóa: inhibin B, FSH, PESA, TESE, ngưỡng giá trị tham khảo, thu nhận tinh trùng từ mào tinh và tinh hoàn
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tối ưu hoá thời điểm kiểm tra thụ tinh khi nuôi cấy trong tủ cấy thường dựa trên dữ liệu thu nhận từ 78.348 phôi quan sát bằng hệ thống time - lapse - Ngày đăng: 04-11-2021
Tối ưu hoá thời điểm kiểm tra thụ tinh khi nuôi cấy trong tủ cấy thường dựa trên dữ liệu thu nhận từ 78.348 phôi quan sát bằng hệ thống time - lapse - Ngày đăng: 04-11-2021
Mối tương quan giữa vitamin D, inhibin B, và các chỉ số tinh tương ở nam vô sinh Iraq - Ngày đăng: 04-11-2021
Tương quan giữa trào ngược tinh dịch và tỷ lệ mang thai trong IUI - Ngày đăng: 04-11-2021
Thủy tinh hóa noãn ảnh hưởng tiêu cực lên khả năng giải phóng Ca2+ và khả năng hoạt hóa noãn ở noãn chuột nhưng cung cấp thông tin hữu ích cho mục đích điều trị - Ngày đăng: 04-11-2021
Chuẩn bị tinh trùng trước đông lạnh có tốt hơn sau đông lạnh không? - Ngày đăng: 04-11-2021
Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đối với thời kỳ đầu mang thai: tỷ lệ sẩy thai có thay đổi ở phụ nữ nhiễm virus không có triệu chứng? - Ngày đăng: 02-11-2021
Thuật toán máy học dùng pH nội bào của tinh trùng tiên lượng tỉ lệ thành công của thụ tinh ống nghiệm cổ điển ở nam giới bình thường - Ngày đăng: 31-10-2021
Tác động của lạc nội mạc tử cung lên hình thái noãn trong IVF-ICSI: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với hơn 6000 noãn trưởng thành - Ngày đăng: 31-10-2021
Tổng quan về quản lý trong labo và lâm sàng liên quan đến bạch cầu và hồng cầu cao trong tinh dịch - Ngày đăng: 31-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK