Tin tức
on Tuesday 02-11-2021 6:00pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN.NHS Nguyễn Thị Tuyết Hoa
Coronavirus 2019 (2019-nCoV) là virus gây bệnh viêm đường hô hấp cấp ở người và có thể lây lan từ người sang người. Virus này được xác định trong một cuộc điều tra ổ dịch bắt nguồn từ khu chợ lớn chuyên bán hải sản và động vật ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. 2019-nCoV là chủng virus mới chưa được xác định trước đó. Ngoài chủng coronavirus mới phát hiện này, đã có nhiều chủng coronavirus khác được biết tới ngày nay có khả năng lây nhiễm ở người với nhiều biến thể có khả năng lây nhiễm cao hơn và kháng vaccine cao hơn.
Để đánh giá ảnh hưởng của tình trạng đại dịch COVID-19 đối với thai kỳ sớm trong ba tháng đầu, một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện tại một trung tâm sinh sản liên kết với trường đại học ở Montreal, Quebec, từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 6 tháng 5 năm 2020. Đối tượng nghiên cứu bao gồm tất cả phụ nữ đã đến khám thai ở trong ba tháng đầu (Nhóm nghiên cứu) và từ ngày 1 tháng 3 năm 2019 đến ngày 17 tháng 5 năm 2019, truy xuất dữ liệu của nhóm thai phụ tương tự đã đến khám khoảng một năm trước (Đối chứng). Dân số nghiên cứu được xác nhận không có các biểu hiện lâm sàng do nhiễm COVID-19.
Chúng tôi đã xem xét tất cả các lần thai phụ thăm khám trong tam cá nguyệt đầu tiên. Các dữ liệu về tỉ lệ thai lưu, thai sinh hóa và sẩy thai cũng như tỉ lệ thai ngoài tử cung ở 3 tháng đầu cũng được thu thập ở nhóm đối tượng trên. Phân tích đa biến cũng được thực hiện để kiểm soát các biến khác, như một phương pháp khẳng định độ mạnh về mặt thống kê cho các tính toán cỡ mẫu của nghiên cứu.
Có 113 thai phụ đang ở giai đoạn 3 tháng đầu thai kỳ được đưa vào nghiên cứu và 172 phụ nữ trong giai đoạn đối chứng (tuổi thai 5–11 tuần) với tuổi mẹ trung bình là 36,5 ± 4,5 và 37,2 ± 5,4 tuổi (p = 0,28). Tỷ lệ có thai lâm sàng không có sự khác biệt giữa hai nhóm (76,1 so với 80,2% ở nhóm thai phụ được khảo sát trong thời kỳ đại dịch và trước đại dịch p = 0,41). Không có sự khác biệt đáng kể nào về tổng số thai ngưng phát triển (bao gồm tổng các trường hợp sẩy thai sinh hóa, sẩy thai lâm sàng trong 3 tháng đầu và túi thai trống) (22,1 so với 16,9% p = 0,32), cũng như tính riêng các trường hợp trong từng loại sẩy thai.
Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy dường như bối cảnh đại dịch COVID-19 không ảnh hưởng đến tỷ lệ sẩy thai sớm trong ba tháng đầu ở những bệnh nhân nhiễm virus không có triệu chứng.
Nguồn: Rotshenker-Olshinka, Keren, et al. "COVID-19 pandemic effect on early pregnancy: are miscarriage rates altered, in asymptomatic women?." Archives of Gynecology and Obstetrics 303.3 (2021): 839-845.
Coronavirus 2019 (2019-nCoV) là virus gây bệnh viêm đường hô hấp cấp ở người và có thể lây lan từ người sang người. Virus này được xác định trong một cuộc điều tra ổ dịch bắt nguồn từ khu chợ lớn chuyên bán hải sản và động vật ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. 2019-nCoV là chủng virus mới chưa được xác định trước đó. Ngoài chủng coronavirus mới phát hiện này, đã có nhiều chủng coronavirus khác được biết tới ngày nay có khả năng lây nhiễm ở người với nhiều biến thể có khả năng lây nhiễm cao hơn và kháng vaccine cao hơn.
Để đánh giá ảnh hưởng của tình trạng đại dịch COVID-19 đối với thai kỳ sớm trong ba tháng đầu, một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện tại một trung tâm sinh sản liên kết với trường đại học ở Montreal, Quebec, từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 6 tháng 5 năm 2020. Đối tượng nghiên cứu bao gồm tất cả phụ nữ đã đến khám thai ở trong ba tháng đầu (Nhóm nghiên cứu) và từ ngày 1 tháng 3 năm 2019 đến ngày 17 tháng 5 năm 2019, truy xuất dữ liệu của nhóm thai phụ tương tự đã đến khám khoảng một năm trước (Đối chứng). Dân số nghiên cứu được xác nhận không có các biểu hiện lâm sàng do nhiễm COVID-19.
Chúng tôi đã xem xét tất cả các lần thai phụ thăm khám trong tam cá nguyệt đầu tiên. Các dữ liệu về tỉ lệ thai lưu, thai sinh hóa và sẩy thai cũng như tỉ lệ thai ngoài tử cung ở 3 tháng đầu cũng được thu thập ở nhóm đối tượng trên. Phân tích đa biến cũng được thực hiện để kiểm soát các biến khác, như một phương pháp khẳng định độ mạnh về mặt thống kê cho các tính toán cỡ mẫu của nghiên cứu.
Có 113 thai phụ đang ở giai đoạn 3 tháng đầu thai kỳ được đưa vào nghiên cứu và 172 phụ nữ trong giai đoạn đối chứng (tuổi thai 5–11 tuần) với tuổi mẹ trung bình là 36,5 ± 4,5 và 37,2 ± 5,4 tuổi (p = 0,28). Tỷ lệ có thai lâm sàng không có sự khác biệt giữa hai nhóm (76,1 so với 80,2% ở nhóm thai phụ được khảo sát trong thời kỳ đại dịch và trước đại dịch p = 0,41). Không có sự khác biệt đáng kể nào về tổng số thai ngưng phát triển (bao gồm tổng các trường hợp sẩy thai sinh hóa, sẩy thai lâm sàng trong 3 tháng đầu và túi thai trống) (22,1 so với 16,9% p = 0,32), cũng như tính riêng các trường hợp trong từng loại sẩy thai.
Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy dường như bối cảnh đại dịch COVID-19 không ảnh hưởng đến tỷ lệ sẩy thai sớm trong ba tháng đầu ở những bệnh nhân nhiễm virus không có triệu chứng.
Nguồn: Rotshenker-Olshinka, Keren, et al. "COVID-19 pandemic effect on early pregnancy: are miscarriage rates altered, in asymptomatic women?." Archives of Gynecology and Obstetrics 303.3 (2021): 839-845.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Thuật toán máy học dùng pH nội bào của tinh trùng tiên lượng tỉ lệ thành công của thụ tinh ống nghiệm cổ điển ở nam giới bình thường - Ngày đăng: 31-10-2021
Tác động của lạc nội mạc tử cung lên hình thái noãn trong IVF-ICSI: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với hơn 6000 noãn trưởng thành - Ngày đăng: 31-10-2021
Tổng quan về quản lý trong labo và lâm sàng liên quan đến bạch cầu và hồng cầu cao trong tinh dịch - Ngày đăng: 31-10-2021
Tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp khi sử dụng tinh trùng có khả năng liên kết với zona pellucida như một cách chọn lọc tự nhiên để cải thiện kết quả ICSI - Ngày đăng: 31-10-2021
Xác định các cytokine trong tinh tương liên quan đến tuổi bố và lối sống trong các trường hợp sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 31-10-2021
Mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể ở nữ giới với tỉ lệ phôi nang nguyên bội và tỉ lệ trẻ sinh sống - Ngày đăng: 31-10-2021
Công nghệ hỗ trợ sinh sản và rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ: tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 31-10-2021
Ảnh hưởng của tuổi mẹ đến kết quả thai hoặc sơ sinh trong số 4.958 phụ nữ hiếm muộn sử dụng chiến lược trữ đông toàn bộ - Ngày đăng: 30-10-2021
Theo dõi dị tật bẩm sinh sau công nghệ hỗ trợ sinh sản ở Bắc Kinh: một nghiên cứu đoàn hệ dựa trên dân số - Ngày đăng: 30-10-2021
Cập nhật khuyến cáo của cdc 2021 về sàng lọc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (phần 2) - Ngày đăng: 30-10-2021
Cập nhật khuyến cáo của cdc 2021 về sàng lọc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (phần 1) - Ngày đăng: 30-10-2021
Tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp về ảnh hưởng của IMSI đến tỉ lệ trẻ dị tật bẩm sinh - Ngày đăng: 30-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK