Tin tức
on Saturday 30-10-2021 10:40pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương
Tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ thụ tinh tự nhiên dao động trong khoảng 2-4%, một số nghiên cứu cho thấy tỉ lệ này có thể cao hơn ở nhóm trẻ sinh ra từ hỗ trợ sinh sản, tương ứng 6,5%. Việc tìm kiếm và phát triển các kỹ thuật nhằm cải thiện tỉ lệ dị tật bẩm sinh là một trong những vấn đề được quan tâm. Vào đầu những năm 2000, một kỹ thuật mới để đánh giá hình thái tinh trùng đã được phát triển bởi Bartoov và cộng sự, dựa trên phương pháp quan sát tinh trùng ở độ phóng đại cao mà không cần cố định hoặc nhuộm, được gọi là MSOME (Motile sperm organelle morphology examination). Ngoài việc đánh giá hình dạng đầu, cổ và đuôi tinh trùng, MSOME cho phép đánh giá sự hiện diện của không bào trong đầu tinh trùng - được xem là một trong những dấu hiệu có liên quan đến khả năng sinh tinh và tổn thương DNA tinh trùng. Việc sử dụng MSOME để chọn lọc tinh trùng trước ICSI, hay còn gọi là IMSI (Intracytoplasmic morphologically selected sperm injection) giúp lựa chọn tinh trùng có tổn thương DNA thấp. Việc sử dụng IMSI cũng được đánh giá là có thể cải thiện tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ sẩy thai thấp hơn và được mô tả là có liên quan đến thay đổi tỉ lệ dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, những dữ liệu về tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sau IMSI vẫn còn hạn chế. Phân tích tổng hợp này nhằm đánh giá và trả lời cho câu hỏi: IMSI có thể làm giảm tỉ lệ dị tật bẩm sinh, bao gồm các dị tật về cấu trúc và bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sinh ra từ hỗ trợ sinh sản hay không?
Một đánh giá có hệ thống dựa trên các tìm kiếm được thực hiện trong cơ sở dữ liệu điện tử (PubMed, EMBASE, Web of Science, SCOPUS và Cochrane Central Register of Controlled Trials) được công bố đến tháng 2 năm 2021 so sánh tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ ICSI và IMSI. Trong số 44 nghiên cứu được thu thập, 03 nghiên cứu đáp ứng các tiêu chí nhận. Phân tích tổng hợp được thực hiện trên 3907 trẻ, trong đó có 1280 trẻ sinh ra sau IMSI và 2627 trẻ sinh ra sau ICSI.
Kết quả cho thấy:
- IMSI có tỉ lệ dị tật cấu trúc là 2,2% (18/830), giảm đáng kể so với ICSI là 3,8% (78/2049) (p = 0,04).
- Không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy về bất thường nhiễm sắc thể (Trisomy 13/18/21 và Triple X) giữa trẻ sinh ra từ IMSI (0,96%; 8/830) và ICSI (0,93%; 19/2049) (p = 0,87)
- Tỉ lệ dị tật bẩm sinh khác biệt có ý nghĩa thống kê, với 2,5% (32/1280) trong IMSI và 4,5% (119/2627) trong ICSI (p = 0,007).
Như vậy, các kết quả từ phân tích tổng hợp cho thấy IMSI dường như là một kỹ thuật hiệu quả trong việc giảm tỉ lệ các dị tật bẩm sinh so với ICSI. Tuy nhiên, IMSI không làm thay đổi tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể.
Tài liệu tham khảo
Dieamant F, Petersen CG, Vagnini LD và cộng sự. Impact of Intracytoplasmic Morphologically Selected Sperm Injection (IMSI) on Birth Defects: A Systematic Review and Meta-Analysis. JBRA Assist Reprod. 2021;25(3):466-472.
Tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ thụ tinh tự nhiên dao động trong khoảng 2-4%, một số nghiên cứu cho thấy tỉ lệ này có thể cao hơn ở nhóm trẻ sinh ra từ hỗ trợ sinh sản, tương ứng 6,5%. Việc tìm kiếm và phát triển các kỹ thuật nhằm cải thiện tỉ lệ dị tật bẩm sinh là một trong những vấn đề được quan tâm. Vào đầu những năm 2000, một kỹ thuật mới để đánh giá hình thái tinh trùng đã được phát triển bởi Bartoov và cộng sự, dựa trên phương pháp quan sát tinh trùng ở độ phóng đại cao mà không cần cố định hoặc nhuộm, được gọi là MSOME (Motile sperm organelle morphology examination). Ngoài việc đánh giá hình dạng đầu, cổ và đuôi tinh trùng, MSOME cho phép đánh giá sự hiện diện của không bào trong đầu tinh trùng - được xem là một trong những dấu hiệu có liên quan đến khả năng sinh tinh và tổn thương DNA tinh trùng. Việc sử dụng MSOME để chọn lọc tinh trùng trước ICSI, hay còn gọi là IMSI (Intracytoplasmic morphologically selected sperm injection) giúp lựa chọn tinh trùng có tổn thương DNA thấp. Việc sử dụng IMSI cũng được đánh giá là có thể cải thiện tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ sẩy thai thấp hơn và được mô tả là có liên quan đến thay đổi tỉ lệ dị tật bẩm sinh. Tuy nhiên, những dữ liệu về tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sau IMSI vẫn còn hạn chế. Phân tích tổng hợp này nhằm đánh giá và trả lời cho câu hỏi: IMSI có thể làm giảm tỉ lệ dị tật bẩm sinh, bao gồm các dị tật về cấu trúc và bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sinh ra từ hỗ trợ sinh sản hay không?
Một đánh giá có hệ thống dựa trên các tìm kiếm được thực hiện trong cơ sở dữ liệu điện tử (PubMed, EMBASE, Web of Science, SCOPUS và Cochrane Central Register of Controlled Trials) được công bố đến tháng 2 năm 2021 so sánh tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ ICSI và IMSI. Trong số 44 nghiên cứu được thu thập, 03 nghiên cứu đáp ứng các tiêu chí nhận. Phân tích tổng hợp được thực hiện trên 3907 trẻ, trong đó có 1280 trẻ sinh ra sau IMSI và 2627 trẻ sinh ra sau ICSI.
Kết quả cho thấy:
- IMSI có tỉ lệ dị tật cấu trúc là 2,2% (18/830), giảm đáng kể so với ICSI là 3,8% (78/2049) (p = 0,04).
- Không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy về bất thường nhiễm sắc thể (Trisomy 13/18/21 và Triple X) giữa trẻ sinh ra từ IMSI (0,96%; 8/830) và ICSI (0,93%; 19/2049) (p = 0,87)
- Tỉ lệ dị tật bẩm sinh khác biệt có ý nghĩa thống kê, với 2,5% (32/1280) trong IMSI và 4,5% (119/2627) trong ICSI (p = 0,007).
Như vậy, các kết quả từ phân tích tổng hợp cho thấy IMSI dường như là một kỹ thuật hiệu quả trong việc giảm tỉ lệ các dị tật bẩm sinh so với ICSI. Tuy nhiên, IMSI không làm thay đổi tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể.
Tài liệu tham khảo
Dieamant F, Petersen CG, Vagnini LD và cộng sự. Impact of Intracytoplasmic Morphologically Selected Sperm Injection (IMSI) on Birth Defects: A Systematic Review and Meta-Analysis. JBRA Assist Reprod. 2021;25(3):466-472.
Từ khóa: Tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp về ảnh hưởng của IMSI đến tỉ lệ trẻ dị tật bẩm sinh
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đánh giá ảnh hưởng của thời gian làm việc theo ca và chất lượng giấc ngủ lên các thông số tinh dịch ở nam giới khám hiếm muộn - Ngày đăng: 30-10-2021
So sánh đông lạnh nhanh và thủy tinh hóa trong đông lạnh tinh trùng người bằng cách sử dụng sucrose trong hệ thống cọng rạ kín - Ngày đăng: 30-10-2021
Sự dư thừa Fibronectin-1 trong cơ chế bệnh sinh của biến chứng tiền sản giật thông qua thúc đẩy quá trình apoptosis và quá trình tự thực bào ở các tế bào nội mô thành mạch - Ngày đăng: 26-10-2021
Điều hoà giảm biểu hiện aromatase đóng vai trò kép trong biến chứng tiền sản giật - Ngày đăng: 26-10-2021
Tỉ lệ noãn có bào tương hạt cao hơn ở những phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng trong các chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 26-10-2021
Cập nhật mới về ảnh hưởng của COVID-19 đối với sinh sản nam giới - Ngày đăng: 26-10-2021
SARS-CoV-2 và nhau thai: những quan điểm mới - Ngày đăng: 26-10-2021
Can thiệp cải thiện lối sống trước khi thụ tinh ống nghiệm không cải thiện chất lượng phôi và tỷ lệ sinh sống tích lũy ở nhóm phụ nữ béo phì: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 26-10-2021
Chuyển động tự nhiên của phôi (enMotion): một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên ghép đôi đánh giá hệ thống nuôi cấy phôi động - Ngày đăng: 22-10-2021
Sự hiện diện của trí tuệ nhân tạo liệu có cần thiết? Thuật toán trí tuệ nhân tạo giúp chuyên viên phôi học lựa chọn phôi có tiềm năng làm tổ tốt hơn - Ngày đăng: 22-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK