Tin tức
on Tuesday 26-10-2021 4:55pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trương Văn Hải
IVFMD Tân Bình
Bệnh viêm phổi cấp Covid 19 do một loại virus có tên là SARS-COV-2, cùng họ với SARS gây đại dịch năm 2003 gây ra. COVID 19 được phát hiện lần đầu tiên vào cuối năm 2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc. Ngày 11/03/2020, WHO nhận định dịch COVID-19 là đại dịch toàn cầu. Cũng trong ngày 11/02/2020, Ủy ban quốc tế về phân loại virus ICTV thông báo, tên của loại virus mới (trước đây gọi là nCoV) là virus Corona 2 gây ra Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV-2). Tên này được chọn bởi đặc tính gene của virus này liên quan đến loại virus Corona gây dịch bệnh SARS vào năm 2003. Tuy nhiên, 2 loại virus này là khác nhau, SARS-CoV-2 được cho là có mức độ nguy hiểm, lây lan nhanh hơn nhiều so với SARS-CoV. Hiện nay sức tàn phá của bệnh dịch này là rất nặng nề trên nhiều khía cạnh y tế, kinh tế, xã hội.
Liên quan đến những trường hợp mang thai mắc virus, chỉ có một số các báo cáo nhỏ về đặc điểm nhau thai trong những tháng đầu tiên của đại dịch. Gần đây, ngày càng có nhiều trường hợp nhiễm trùng nhau thai do SARS-CoV-2 được mô tả, tuy nhiên câu hỏi liệu có sự lây nhiễm SARS-CoV-2 từ mẹ qua thai nhi thông qua nhau thai hay không vẫn đang bỏ ngỏ. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy rằng sự lây truyền ở trẻ sơ sinh là rất hiếm và không có biến đổi về mô bệnh học ở các nhau thai từ mẹ nhiễm SARS-CoV-2, cũng như không có bất kỳ nguy cơ rõ ràng nào lớn về sẩy thai tự nhiên, tiền sản giật, sản giật, sinh non hoặc thai chết lưu. Tuy nhiên, một số trường hợp cỡ mẫu lớn vẫn chưa được báo cáo do những khó khăn về phương pháp và đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu bệnh chứng này nhằm báo cáo phân tích một loạt lớn các nhau thai từ các bà mẹ dương tính với SARS-CoV-2 được quan sát tại trung tâm điều trị COVID-19 trong đại dịch. Nghiên cứu đánh giá mô bệnh học, cấu trúc và hóa mô miễn dịch giữa 83 nhau thai từ nhóm thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 và 142 nhau thai từ nhóm chứng trong thời gian tháng 9/2020 đến 1/2021.
Kết quả:
- không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi mẹ và tuổi thai giữa các bà mẹ dương tính với SARS-CoV-2 và bà mẹ từ nhóm đối chứng (p > 0,05); trọng lượng bánh nhau cũng không có khác biệt (p=0.48).
- Tỷ lệ suy giảm chức năng mạch máu của mẹ không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng (54,3% so với 43,7% p= 0,19). Ngược lại, đã có sự khác biệt về tình trạng suy giảm chức năng mạch máu thai nhi (21,1% so với 4,2% p <0,001). Các dấu hiệu liên quan đến bệnh lý động mạch (40,9% so với 1,4% p <0,0001), viêm màng rụng (32,4% so với 0,7, p <0,0001), lắng đọng fibrin quanh túi thai (36,6% so với 3,5% p <0,0001) và huyết khối mạch máu thai nhi (22,5% so với 0,7% p <0,0001) cao hơn đáng kể giữa nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng. Tỷ lệ tăng mạch máu nhung mao thấp hơn (12,7% so với 34,5%; p <0,001) được quan sát thấy ở nhóm dương tính với SARS-CoV-2.
Kết luận: Nghiên cứu này được thực hiện trên một số lượng lớn nhau thai, cho thấy rằng trong những trường hợp phụ nữ mang thai dương tính với SARS-CoV-2 mà không truyền bệnh cho thai nhi, thì nhau thai phần lớn không bị ảnh hưởng bởi quá trình viêm. Tuy nhiên, có một số đặc điểm thường gặp hơn ở nhau thai của những phụ nữ bị nhiễm bệnh, cụ thể là huyết khối ở người mẹ và viêm màng rụng, tăng fibrin ở tế bào kẽ, và trong một số trường hợp hiếm gặp hơn là huyết khối thai nhi. Khi đại dịch tiếp tục gia tăng, những nghiên cứu như thế này sẽ trở nên cấp thiết hơn để làm rõ cơ chế lây truyền từ mẹ sang con và ảnh hưởng của virus đối với thai nhi.
Tài liệu tham khảo:
L. Resta et al., “SARS-CoV-2 and Placenta: New Insights and Perspectives,” Viruses, vol. 13, no. 5, p. 723, Apr. 2021, doi: 10.3390/v13050723.
IVFMD Tân Bình
Bệnh viêm phổi cấp Covid 19 do một loại virus có tên là SARS-COV-2, cùng họ với SARS gây đại dịch năm 2003 gây ra. COVID 19 được phát hiện lần đầu tiên vào cuối năm 2019 tại Vũ Hán, Trung Quốc. Ngày 11/03/2020, WHO nhận định dịch COVID-19 là đại dịch toàn cầu. Cũng trong ngày 11/02/2020, Ủy ban quốc tế về phân loại virus ICTV thông báo, tên của loại virus mới (trước đây gọi là nCoV) là virus Corona 2 gây ra Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV-2). Tên này được chọn bởi đặc tính gene của virus này liên quan đến loại virus Corona gây dịch bệnh SARS vào năm 2003. Tuy nhiên, 2 loại virus này là khác nhau, SARS-CoV-2 được cho là có mức độ nguy hiểm, lây lan nhanh hơn nhiều so với SARS-CoV. Hiện nay sức tàn phá của bệnh dịch này là rất nặng nề trên nhiều khía cạnh y tế, kinh tế, xã hội.
Liên quan đến những trường hợp mang thai mắc virus, chỉ có một số các báo cáo nhỏ về đặc điểm nhau thai trong những tháng đầu tiên của đại dịch. Gần đây, ngày càng có nhiều trường hợp nhiễm trùng nhau thai do SARS-CoV-2 được mô tả, tuy nhiên câu hỏi liệu có sự lây nhiễm SARS-CoV-2 từ mẹ qua thai nhi thông qua nhau thai hay không vẫn đang bỏ ngỏ. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy rằng sự lây truyền ở trẻ sơ sinh là rất hiếm và không có biến đổi về mô bệnh học ở các nhau thai từ mẹ nhiễm SARS-CoV-2, cũng như không có bất kỳ nguy cơ rõ ràng nào lớn về sẩy thai tự nhiên, tiền sản giật, sản giật, sinh non hoặc thai chết lưu. Tuy nhiên, một số trường hợp cỡ mẫu lớn vẫn chưa được báo cáo do những khó khăn về phương pháp và đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu bệnh chứng này nhằm báo cáo phân tích một loạt lớn các nhau thai từ các bà mẹ dương tính với SARS-CoV-2 được quan sát tại trung tâm điều trị COVID-19 trong đại dịch. Nghiên cứu đánh giá mô bệnh học, cấu trúc và hóa mô miễn dịch giữa 83 nhau thai từ nhóm thai phụ nhiễm SARS-CoV-2 và 142 nhau thai từ nhóm chứng trong thời gian tháng 9/2020 đến 1/2021.
Kết quả:
- không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi mẹ và tuổi thai giữa các bà mẹ dương tính với SARS-CoV-2 và bà mẹ từ nhóm đối chứng (p > 0,05); trọng lượng bánh nhau cũng không có khác biệt (p=0.48).
- Tỷ lệ suy giảm chức năng mạch máu của mẹ không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng (54,3% so với 43,7% p= 0,19). Ngược lại, đã có sự khác biệt về tình trạng suy giảm chức năng mạch máu thai nhi (21,1% so với 4,2% p <0,001). Các dấu hiệu liên quan đến bệnh lý động mạch (40,9% so với 1,4% p <0,0001), viêm màng rụng (32,4% so với 0,7, p <0,0001), lắng đọng fibrin quanh túi thai (36,6% so với 3,5% p <0,0001) và huyết khối mạch máu thai nhi (22,5% so với 0,7% p <0,0001) cao hơn đáng kể giữa nhóm nghiên cứu so với nhóm chứng. Tỷ lệ tăng mạch máu nhung mao thấp hơn (12,7% so với 34,5%; p <0,001) được quan sát thấy ở nhóm dương tính với SARS-CoV-2.
Kết luận: Nghiên cứu này được thực hiện trên một số lượng lớn nhau thai, cho thấy rằng trong những trường hợp phụ nữ mang thai dương tính với SARS-CoV-2 mà không truyền bệnh cho thai nhi, thì nhau thai phần lớn không bị ảnh hưởng bởi quá trình viêm. Tuy nhiên, có một số đặc điểm thường gặp hơn ở nhau thai của những phụ nữ bị nhiễm bệnh, cụ thể là huyết khối ở người mẹ và viêm màng rụng, tăng fibrin ở tế bào kẽ, và trong một số trường hợp hiếm gặp hơn là huyết khối thai nhi. Khi đại dịch tiếp tục gia tăng, những nghiên cứu như thế này sẽ trở nên cấp thiết hơn để làm rõ cơ chế lây truyền từ mẹ sang con và ảnh hưởng của virus đối với thai nhi.
Tài liệu tham khảo:
L. Resta et al., “SARS-CoV-2 and Placenta: New Insights and Perspectives,” Viruses, vol. 13, no. 5, p. 723, Apr. 2021, doi: 10.3390/v13050723.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Can thiệp cải thiện lối sống trước khi thụ tinh ống nghiệm không cải thiện chất lượng phôi và tỷ lệ sinh sống tích lũy ở nhóm phụ nữ béo phì: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 26-10-2021
Chuyển động tự nhiên của phôi (enMotion): một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên ghép đôi đánh giá hệ thống nuôi cấy phôi động - Ngày đăng: 22-10-2021
Sự hiện diện của trí tuệ nhân tạo liệu có cần thiết? Thuật toán trí tuệ nhân tạo giúp chuyên viên phôi học lựa chọn phôi có tiềm năng làm tổ tốt hơn - Ngày đăng: 22-10-2021
Đông lạnh tinh trùng trong hơi nitơ lỏng bằng phương pháp thủy tinh hóa không sử dụng chất bảo vệ đông lạnh: Tác động có lợi của nhiệt độ cao trong rã đông - Ngày đăng: 21-10-2021
Số lượng phôi bào tối ưu và mối liên hệ với kết quả thai và tỉ lệ đa thai ở các chu kì chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 21-10-2021
Không tìm thấy SARS-CoV-2 trong mẫu nước tiểu, dịch tiết tuyến tiền liệt và tinh dịch ở 74 người đàn ông hồi phục sau nhiễm Covid - Ngày đăng: 21-10-2021
Tiền xử lý mô buồng trứng bằng collagenase trước khi thủy tinh hóa giúp duy trì các liên kết tế bào trong các nang buồng trứng - Ngày đăng: 19-10-2021
Tăng nguy cơ biến chứng ở mẹ và trẻ sơ sinh trong các chu kỳ điều trị hormone thay thế trong chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 19-10-2021
Những nguy cơ của SARS-CoV-2 đối với sức khỏe sinh sản nam giới và khuyến cáo thực hành phân tích, bảo quản lạnh tinh dịch - Ngày đăng: 19-10-2021
Khoảng thời gian từ khi chọc hút đến khi chuyển phôi trữ trong chu kỳ tự nhiên không ảnh hưởng đến kết quả sinh sản hoặc kết quả sơ sinh - Ngày đăng: 19-10-2021
Ảnh hưởng của sử dụng nước đóng chai lên kết cục chu kỳ ICSI ở bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 16-10-2021
Đông lạnh tinh trùng: nguyên lý và sinh học - Ngày đăng: 16-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK