Tin tức
on Thursday 21-10-2021 5:25pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Như Quỳnh – IVF Vạn Hạnh
Nuôi cấy và lựa chọn được phôi có chất lượng tốt nhất để chuyển là thách thức và cũng là mục tiêu hướng đến của kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF). Trong thực hành thực tế, nhằm tăng tỉ lệ thành công khi chuyển phôi, số lượng phôi chuyển thường được tăng lên. Tuy nhiên, lựa chọn này thường đi kèm với nguy cơ xảy ra các biến chứng ảnh hưởng đến người mẹ (như đái tháo đường thai kì, tăng huyết áp, băng huyết sau sinh…) và trẻ mới sinh sau này (như trẻ sinh non, nhẹ cân, các biến chứng liên quan đến hệ thần kinh hay bại não…).
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, để hạn chế đa thai cần tối ưu phương pháp đánh giá phôi nhằm lựa chọn và chuyển một phôi duy nhất có chất lượng tốt. Chuyển đơn phôi chọn lọc (elective single embryo transfer – SET) mà phổ biến là chuyển đơn phôi nang đang là lựa chọn hàng đầu ở nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản trên thế giới vì phân tích cho thấy kết quả thai mang lại tích cực hơn. Tuy nhiên, các báo cáo về việc sinh non, song sinh đồng hợp tử, dị tật bẩm sinh và thay đổi tỉ lệ giới tính sau khi chuyển phôi nang đang thu hút nhiều sự quan tâm. Ngoài ra, những thay đổi trong biểu hiện gen khi nuôi cấy phôi dài ngày trong labo phôi học cũng là một vấn đề khác không thể bỏ qua. Hơn nữa, nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang cũng làm tăng nguy cơ hủy bỏ chu kì trong trường hợp phôi ngưng phát triển và bệnh nhân không có phôi để chuyển. Vì vậy, cần có những quyết định đúng đắn trong lựa chọn chuyển 1 phôi hay 2 phôi ở giai đoạn phôi phân chia. Phương pháp đánh giá tiềm năng làm tổ của phôi qua các đặc điểm hình thái ở những chu kì chuyển phôi tươi đã được phát triển dựa trên số lượng phôi bào, sự phân chia đồng đều của phôi, tỉ lệ phân mảnh (đối với phôi giai đoạn phân chia) hay chất lượng khối tế bào bên trong (inner cell mass – ICM) và tế bào ngoại bì lá nuôi (trophectoderm cell – TE) (đối với phôi giai đoạn phôi nang). Mặc dù sự phát triển phôi và hình thái phôi giúp đánh giá phôi có tiềm năng làm tổ cao nhất và có thể có thai, tuy nhiên, kết quả thai vẫn chịu ảnh hưởng bởi số lượng phôi và tuổi phôi chuyển. Khi chuyển phôi trữ, do đặc thù về không gian thời gian của các chu kì trữ – rã phôi và khả năng phục hồi lại trạng thái ban đầu của phôi mà các đánh giá về chất lượng của cùng 1 phôi có thể có thay đổi giữa phôi sau rã và phôi tươi trước trữ. Hiện tại, nhằm tận dụng tối đa số phôi mà bệnh nhân có, một số trung tâm hỗ trợ sinh sản thực hiện trữ lạnh số ít phôi ngày 3, các phôi còn lại được tiếp tục nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang. Số lượng phôi bào trong một phôi giai đoạn phân chia là đặc điểm quan trọng trong đánh giá hình thái. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm phân tích mối liên hệ giữa số lượng phôi bào có trong phôi trước khi trữ và kết quả lâm sàng ở các chu kì chuyển phôi trữ cũng như đưa ra ủng hộ đối với phương pháp trữ phôi để chuyển, có kết hợp với hệ thống phân loại phôi.
Nghiên cứu được thực hiện theo hướng hồi cứu, thu thập thông tin của những bệnh nhân thực hiện chu kì chuyển phôi trữ với số lượng phôi chuyển là 2 phôi ngày 3. Dựa trên số lượng phôi bào của phôi trước khi trữ, bệnh nhân được chia thành 6 nhóm nghiên cứu:
- 8C2 : cả hai phôi đều có 8 phôi bào
- 8C1 - < 8C1 : một phôi có 8 phôi bào và một phôi có ít hơn 8 phôi bào
- 8C1 - > 8C1 : một phôi có 8 phôi bào và một phôi có nhiều hơn 8 phôi bào
- < 8C2 : cả hai phôi đều có ít hơn 8 phôi bào
- < 8C1 - > 8C1 : một phôi có ít hơn 8 phôi bào và một phôi có nhiều hơn 8 phôi bào
- > 8C2 : cả hai phôi đều có nhiều hơn 8 phôi bào
Đối tượng nhận của nghiên cứu bao gồm: i) phôi chất lượng tốt phát triển từ hợp tử 2PN với tỉ lệ phân mảnh < 10% và phôi có tính đồng nhất cao, ii) tất cả phôi đều sống sau rã và iii) chuyển hai phôi ngày 3.
Đánh giá phôi và trữ lạnh
Phôi giai đoạn phân chia được đánh giá thông qua các đặc điểm hình thái như số lượng phôi bào , mức độ phân mảnh, phôi bào đơn nhân hay đa nhân, không bào. Tiêu chuẩn để một phôi ngày 3 được trữ lạnh gồm: i) phôi phát triển từ hợp tử 2PN, ii) số lượng phôi bào không ít hơn 6, iii) tỉ lệ phân mảnh nhỏ hơn 10%, iv) tính đồng nhất của phôi cao và v) phôi không có bất thường cụ thể nào về hình thái.
Mô hình cây quyết định phân loại
Trong mô hình cây quyết định phân loại, mang đơn thai, đa thai hay không mang thai là những biến phụ thuộc, ngược lại, sáu nhóm nghiên cứu (như đã liệt kê), độ tuổi, lần chuyển phôi đầu tiên, nguyên nhân vô sinh, thời gian vô sinh là những biến độc lập. Sự thay đổi liên quan đến độ dày nội mạc được xem là biến ảnh hưởng. Trường hợp danh mục các biến độc lập không có khác biệt so với biến phụ thuộc, nghiên cứu sẽ lựa chọn những biến độc lập có tác động mạnh nhất đến các biến phụ thuộc và kết hợp chúng lại với nhau để xây dựng mô hình cây quyết định phân loại.
Kết quả
Có tổng cộng 2184 chu kì thỏa điều kiện nhận vào nghiên cứu. Có sự khác biệt về tuổi giữa nhóm < 8C1 - > 8C1 và nhóm 8C2 và thời gian vô sinh giữa nhóm < 8C2 và nhóm 8C2, 8C1 - > 8C1 hoặc > 8C2.
Kết quả lâm sàng
Tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ đa thai ở nhóm 8C2 (53,8% và 44,7%) và nhóm 8C1 - > 8C1 (55,8% và 40,9%) cao hơn rõ rệt so với các nhóm còn lại (P < 0,05). Đồng thời, giữa 2 nhóm này không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ làm tổ lẫn tỉ lệ thai lâm sàng. Tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ đa thai thấp hơn đáng kể ở nhóm 8C1 - < 8C1 (31,4% và 29,9%) so với nhóm 8C2 (38,9% và 44,7%) hoặc nhóm 8C1 - > 8C1 (39,3% và 40,9%) (P < 0,001).
Kết quả lâm sàng ở nhóm 8C2 khi so sánh với các nhóm nghiên cứu khác
- Tỉ lệ làm tổ thấp hơn đáng kể ở nhóm 8C1 - < 8C1, < 8C2 ,< 8C1 - > 8C1, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
- Tỉ lệ thai lâm sàng thấp hơn đáng kể ở nhóm < 8C1 - > 8C1, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
- Tỉ lệ đa thai thấp hơn đáng kể ở nhóm 8C1 - < 8C1, < 8C2, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
- Tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn đáng kể ở nhóm < 8C1 - > 8C1, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
Phân tích cây quyết định phân loại
Mô hình cây quyết định phân loại gồm 7 nhánh, trong đó, tỉ lệ đa thai ở 2 nhánh cao hơn so với các nhánh còn lại (độ tuổi ≤ 29 tuổi: 8C2 / 8C1 - > 8C1; độ tuổi trong khoảng lớn hơn 29 tuổi và không quá 36 tuổi trong lần chuyển phôi đầu tiên: 8C1 / 8C1 - < 8C1 / 8C1 - > 8C1). Một nhánh có tỉ lệ đa thai tương đương với tỉ lệ tính toán trên toàn bộ chu kì chuyển phôi (độ tuổi ≤ 29 tuổi trong lần chuyển phôi đầu tiên: 8C1 - < 8C1 / < 8C2 / < 8C1 - > 8C1 / > 8C2).
Như vậy, dựa trên kết quả nghiên cứu, số lượng phôi bào trong một phôi là đặc điểm quan trọng có tác động đến kết quả lâm sàng ở các chu kì chuyển phôi trữ với số lượng phôi chuyển là hai phôi ngày 3. Ngoài ra, độ tuổi của bệnh nhân, số lượng phôi bào và chu kì chuyển phôi lần đầu tiên cũng là những yếu tố giúp dự đoán kết cục điều trị.
Lược dịch từ: Zhu, X.L., Zhao, Z.M., Du, Y.J., Zhou, L., Wang, Y., Sun, Q.Y., Hao, G.M. and Gao, B.L., 2021. The optimal number of embryo cells for effective pregnancy and decrease of multiple pregnancy rate in frozen-thawed embryo transfer. Human Cell, 34(3), pp.836-846.
Nuôi cấy và lựa chọn được phôi có chất lượng tốt nhất để chuyển là thách thức và cũng là mục tiêu hướng đến của kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF). Trong thực hành thực tế, nhằm tăng tỉ lệ thành công khi chuyển phôi, số lượng phôi chuyển thường được tăng lên. Tuy nhiên, lựa chọn này thường đi kèm với nguy cơ xảy ra các biến chứng ảnh hưởng đến người mẹ (như đái tháo đường thai kì, tăng huyết áp, băng huyết sau sinh…) và trẻ mới sinh sau này (như trẻ sinh non, nhẹ cân, các biến chứng liên quan đến hệ thần kinh hay bại não…).
Trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, để hạn chế đa thai cần tối ưu phương pháp đánh giá phôi nhằm lựa chọn và chuyển một phôi duy nhất có chất lượng tốt. Chuyển đơn phôi chọn lọc (elective single embryo transfer – SET) mà phổ biến là chuyển đơn phôi nang đang là lựa chọn hàng đầu ở nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản trên thế giới vì phân tích cho thấy kết quả thai mang lại tích cực hơn. Tuy nhiên, các báo cáo về việc sinh non, song sinh đồng hợp tử, dị tật bẩm sinh và thay đổi tỉ lệ giới tính sau khi chuyển phôi nang đang thu hút nhiều sự quan tâm. Ngoài ra, những thay đổi trong biểu hiện gen khi nuôi cấy phôi dài ngày trong labo phôi học cũng là một vấn đề khác không thể bỏ qua. Hơn nữa, nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang cũng làm tăng nguy cơ hủy bỏ chu kì trong trường hợp phôi ngưng phát triển và bệnh nhân không có phôi để chuyển. Vì vậy, cần có những quyết định đúng đắn trong lựa chọn chuyển 1 phôi hay 2 phôi ở giai đoạn phôi phân chia. Phương pháp đánh giá tiềm năng làm tổ của phôi qua các đặc điểm hình thái ở những chu kì chuyển phôi tươi đã được phát triển dựa trên số lượng phôi bào, sự phân chia đồng đều của phôi, tỉ lệ phân mảnh (đối với phôi giai đoạn phân chia) hay chất lượng khối tế bào bên trong (inner cell mass – ICM) và tế bào ngoại bì lá nuôi (trophectoderm cell – TE) (đối với phôi giai đoạn phôi nang). Mặc dù sự phát triển phôi và hình thái phôi giúp đánh giá phôi có tiềm năng làm tổ cao nhất và có thể có thai, tuy nhiên, kết quả thai vẫn chịu ảnh hưởng bởi số lượng phôi và tuổi phôi chuyển. Khi chuyển phôi trữ, do đặc thù về không gian thời gian của các chu kì trữ – rã phôi và khả năng phục hồi lại trạng thái ban đầu của phôi mà các đánh giá về chất lượng của cùng 1 phôi có thể có thay đổi giữa phôi sau rã và phôi tươi trước trữ. Hiện tại, nhằm tận dụng tối đa số phôi mà bệnh nhân có, một số trung tâm hỗ trợ sinh sản thực hiện trữ lạnh số ít phôi ngày 3, các phôi còn lại được tiếp tục nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang. Số lượng phôi bào trong một phôi giai đoạn phân chia là đặc điểm quan trọng trong đánh giá hình thái. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm phân tích mối liên hệ giữa số lượng phôi bào có trong phôi trước khi trữ và kết quả lâm sàng ở các chu kì chuyển phôi trữ cũng như đưa ra ủng hộ đối với phương pháp trữ phôi để chuyển, có kết hợp với hệ thống phân loại phôi.
Nghiên cứu được thực hiện theo hướng hồi cứu, thu thập thông tin của những bệnh nhân thực hiện chu kì chuyển phôi trữ với số lượng phôi chuyển là 2 phôi ngày 3. Dựa trên số lượng phôi bào của phôi trước khi trữ, bệnh nhân được chia thành 6 nhóm nghiên cứu:
- 8C2 : cả hai phôi đều có 8 phôi bào
- 8C1 - < 8C1 : một phôi có 8 phôi bào và một phôi có ít hơn 8 phôi bào
- 8C1 - > 8C1 : một phôi có 8 phôi bào và một phôi có nhiều hơn 8 phôi bào
- < 8C2 : cả hai phôi đều có ít hơn 8 phôi bào
- < 8C1 - > 8C1 : một phôi có ít hơn 8 phôi bào và một phôi có nhiều hơn 8 phôi bào
- > 8C2 : cả hai phôi đều có nhiều hơn 8 phôi bào
Đối tượng nhận của nghiên cứu bao gồm: i) phôi chất lượng tốt phát triển từ hợp tử 2PN với tỉ lệ phân mảnh < 10% và phôi có tính đồng nhất cao, ii) tất cả phôi đều sống sau rã và iii) chuyển hai phôi ngày 3.
Đánh giá phôi và trữ lạnh
Phôi giai đoạn phân chia được đánh giá thông qua các đặc điểm hình thái như số lượng phôi bào , mức độ phân mảnh, phôi bào đơn nhân hay đa nhân, không bào. Tiêu chuẩn để một phôi ngày 3 được trữ lạnh gồm: i) phôi phát triển từ hợp tử 2PN, ii) số lượng phôi bào không ít hơn 6, iii) tỉ lệ phân mảnh nhỏ hơn 10%, iv) tính đồng nhất của phôi cao và v) phôi không có bất thường cụ thể nào về hình thái.
Mô hình cây quyết định phân loại
Trong mô hình cây quyết định phân loại, mang đơn thai, đa thai hay không mang thai là những biến phụ thuộc, ngược lại, sáu nhóm nghiên cứu (như đã liệt kê), độ tuổi, lần chuyển phôi đầu tiên, nguyên nhân vô sinh, thời gian vô sinh là những biến độc lập. Sự thay đổi liên quan đến độ dày nội mạc được xem là biến ảnh hưởng. Trường hợp danh mục các biến độc lập không có khác biệt so với biến phụ thuộc, nghiên cứu sẽ lựa chọn những biến độc lập có tác động mạnh nhất đến các biến phụ thuộc và kết hợp chúng lại với nhau để xây dựng mô hình cây quyết định phân loại.
Kết quả
Có tổng cộng 2184 chu kì thỏa điều kiện nhận vào nghiên cứu. Có sự khác biệt về tuổi giữa nhóm < 8C1 - > 8C1 và nhóm 8C2 và thời gian vô sinh giữa nhóm < 8C2 và nhóm 8C2, 8C1 - > 8C1 hoặc > 8C2.
Kết quả lâm sàng
Tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ đa thai ở nhóm 8C2 (53,8% và 44,7%) và nhóm 8C1 - > 8C1 (55,8% và 40,9%) cao hơn rõ rệt so với các nhóm còn lại (P < 0,05). Đồng thời, giữa 2 nhóm này không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ làm tổ lẫn tỉ lệ thai lâm sàng. Tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ đa thai thấp hơn đáng kể ở nhóm 8C1 - < 8C1 (31,4% và 29,9%) so với nhóm 8C2 (38,9% và 44,7%) hoặc nhóm 8C1 - > 8C1 (39,3% và 40,9%) (P < 0,001).
Kết quả lâm sàng ở nhóm 8C2 khi so sánh với các nhóm nghiên cứu khác
- Tỉ lệ làm tổ thấp hơn đáng kể ở nhóm 8C1 - < 8C1, < 8C2 ,< 8C1 - > 8C1, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
- Tỉ lệ thai lâm sàng thấp hơn đáng kể ở nhóm < 8C1 - > 8C1, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
- Tỉ lệ đa thai thấp hơn đáng kể ở nhóm 8C1 - < 8C1, < 8C2, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
- Tỉ lệ trẻ sinh sống thấp hơn đáng kể ở nhóm < 8C1 - > 8C1, > 8C2 so với nhóm 8C2 (P < 0,05).
Phân tích cây quyết định phân loại
Mô hình cây quyết định phân loại gồm 7 nhánh, trong đó, tỉ lệ đa thai ở 2 nhánh cao hơn so với các nhánh còn lại (độ tuổi ≤ 29 tuổi: 8C2 / 8C1 - > 8C1; độ tuổi trong khoảng lớn hơn 29 tuổi và không quá 36 tuổi trong lần chuyển phôi đầu tiên: 8C1 / 8C1 - < 8C1 / 8C1 - > 8C1). Một nhánh có tỉ lệ đa thai tương đương với tỉ lệ tính toán trên toàn bộ chu kì chuyển phôi (độ tuổi ≤ 29 tuổi trong lần chuyển phôi đầu tiên: 8C1 - < 8C1 / < 8C2 / < 8C1 - > 8C1 / > 8C2).
Như vậy, dựa trên kết quả nghiên cứu, số lượng phôi bào trong một phôi là đặc điểm quan trọng có tác động đến kết quả lâm sàng ở các chu kì chuyển phôi trữ với số lượng phôi chuyển là hai phôi ngày 3. Ngoài ra, độ tuổi của bệnh nhân, số lượng phôi bào và chu kì chuyển phôi lần đầu tiên cũng là những yếu tố giúp dự đoán kết cục điều trị.
Lược dịch từ: Zhu, X.L., Zhao, Z.M., Du, Y.J., Zhou, L., Wang, Y., Sun, Q.Y., Hao, G.M. and Gao, B.L., 2021. The optimal number of embryo cells for effective pregnancy and decrease of multiple pregnancy rate in frozen-thawed embryo transfer. Human Cell, 34(3), pp.836-846.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Không tìm thấy SARS-CoV-2 trong mẫu nước tiểu, dịch tiết tuyến tiền liệt và tinh dịch ở 74 người đàn ông hồi phục sau nhiễm Covid - Ngày đăng: 21-10-2021
Tiền xử lý mô buồng trứng bằng collagenase trước khi thủy tinh hóa giúp duy trì các liên kết tế bào trong các nang buồng trứng - Ngày đăng: 19-10-2021
Tăng nguy cơ biến chứng ở mẹ và trẻ sơ sinh trong các chu kỳ điều trị hormone thay thế trong chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 19-10-2021
Những nguy cơ của SARS-CoV-2 đối với sức khỏe sinh sản nam giới và khuyến cáo thực hành phân tích, bảo quản lạnh tinh dịch - Ngày đăng: 19-10-2021
Khoảng thời gian từ khi chọc hút đến khi chuyển phôi trữ trong chu kỳ tự nhiên không ảnh hưởng đến kết quả sinh sản hoặc kết quả sơ sinh - Ngày đăng: 19-10-2021
Ảnh hưởng của sử dụng nước đóng chai lên kết cục chu kỳ ICSI ở bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 16-10-2021
Đông lạnh tinh trùng: nguyên lý và sinh học - Ngày đăng: 16-10-2021
Đông lạnh tinh trùng: nguyên lý và sinh học - Ngày đăng: 16-10-2021
Sự nở rộng lại khoang phôi nang sau rã không ảnh hưởng đến tỷ lệ thai lâm sàng ở các chu kỳ chuyển phôi trữ: một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 15-10-2021
Vacxin COVID-19 đối với thai phụ và phụ nữ cho con bú: Nên hay không nên? - Ngày đăng: 13-10-2021
Sự tăng biểu hiện của ACE2, thụ thể của SARS-COV-2, ở các nang noãn vượt trội của người - Ngày đăng: 13-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK