Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 19-10-2021 7:47am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Cẩm Nhung – IVFMD Tân Bình

Vào năm 2016, gần 25% số ca chuyển phôi ở Hoa Kỳ là chu kỳ chuyển phôi trữ tự thân (FET), tăng gần gấp đôi trong vòng 10 năm qua. Với sự phát triển của hệ thống nuôi cấy phôi và kỹ thuật đông lạnh, hiệu quả lâm sàng của các chu kỳ chuyển phôi trữ ngày càng tăng trên nhiều nhóm bệnh nhân bao gồm bệnh nhân đáp ứng buồng trứng bình thường, bệnh nhân mắc hội chứng buồng trứng đa nang và bệnh nhân có nguy cơ quá kích buồng trứng. Quá trình kích thích buồng trứng có kiểm soát (COH) có liên quan đến sự gia tăng nồng độ estradiol (E2) và nồng độ progesterone ở pha nang noãn muộn, làm ảnh hưởng đến kết quả chuyển phôi tươi, việc biểu hiện nội tiết quá mức làm giảm sự biểu hiện gen của nội mạc tử cung, từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung.
 
Theo nghiên cứu của Santos-Ribeiro khi đánh giá kết quả chuyển phôi trữ ở 333 bệnh nhân cho thấy khoảng thời gian sau khi chọc hút đến khi chuyển phôi không ảnh hưởng đến tỷ lệ thai lâm sàng nếu chuyển phôi trữ tại chu kỳ kinh nguyệt tiếp theo sau chọc hút. Nghiên cứu của Lattes và cộng sự cũng cho kết quả tương tự khi tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống không có sự khác biệt ở nhóm chuyển phôi trữ trong chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên so với chu kỳ kinh nguyệt tiếp theo sau kích thích buồng trứng. Tuy nhiên Higgins và cộng sự đã chứng minh tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi thời gian này là 25–35 ngày so với 50–70 ngày. Đồng thời, Kaye và cộng sự cũng chứng minh rằng chuyển phôi trữ ở các chu kỳ kinh nguyệt tiếp theo cho tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn so với chuyển phôi trữ ở chu kỳ ngay sau chọc hút. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá từ khi chọc hút đến khi chuyển phôi trữ đơn phôi trong chu kỳ tự nhiên có ảnh hưởng đến tỷ lệ mang thai và tỷ lệ sinh sống đối với các bệnh nhân kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH antagonist sử dụng hỗ trợ trưởng thành noãn là hCG hoặc kết hợp hCG với GnRH agonist. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn đánh giá việc chọc hút noãn có ảnh hưởng đến kết quả sơ sinh như tuổi thai nhỏ (SGA) hoặc sinh non (24–37 tuần) hay không?
 
Thiết kế nghiên cứu: Đây là nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ ngày 1 tháng 1, 2011 đến ngày 31 tháng 12, 2018. Tổng cộng có 576 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu, bệnh nhân được chia làm hai nhóm: nhóm 1 chuyển phôi trữ ở chu kỳ kinh đầu tiên sau chọc hút và nhóm 2 chuyển phôi ở chu kỳ kinh thứ 2 sau chọc hút.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh sống khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm một và nhóm hai (57,7% so với 48,6%). Tuy nhiên với phân tích đa biến thì tỷ lệ sinh sống lại không có sự khác biệt khi chuyển một phôi ở giai đoạn phôi nang ở hai nhóm bệnh nhân. Sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu như tuổi, chẩn đoán và loại trigger, chỉ có nhóm PGT có tỷ lệ sinh sống tăng có ý nghĩa thống kê so với không có PGT. Không có sự khác biệt về tỷ lệ SGA (nam, 6,6% so với 2,3%; nữ, 9,8% so với 11,1%) hoặc sinh non (1,6% so với 5,6%) giữa cả hai nhóm.
 
Kết luận: Khoảng thời gian từ khi chọc hút đến khi chuyển phôi trữ giai đoạn phôi nang trong chu kỳ tự nhiên ở chu kỳ kinh thứ 2 so với chu kỳ kinh thứ nhất không ảnh hưởng đến kết quả sinh sống hoặc sơ sinh.
 
Nguồn: Bortoletto, P., Romanski, P. A., Magaoay, B. I., Rosenwaks, Z., & Spandorfer, S. D. (2021). Time from oocyte retrieval to frozen embryo transfer in the natural cycle does not impact reproductive or neonatal outcomes. Fertility and Sterility115(5), 1232-1238.

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK