Tin tức
on Tuesday 12-10-2021 3:14pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Vân Anh – IVF Vạn Hạnh
Để có được các ca sinh bé từ chuyển đơn phôi là một trong những thách thức lớn của hỗ trợ sinh sản. Có nhiều phương pháp để đánh giá tiềm năng phát triển của phôi, trong đó phổ biến nhất vẫn là hình thái học. Khi được bác sĩ chỉ định, xét nghiệm sàng lọc lệch bội nhiễm sắc thể (Preimplantation genetic testing for aneuploidy – PGT-A) là một biện pháp bổ sung để xác định cơ hội làm tổ cao hơn và sinh ra những đứa trẻ khỏe mạnh. Bên cạnh đó, với sự ra đời của hệ thống nuôi cấy phôi kết hợp với camera quan sát liên tục (Time-lapse monitoring – TLM) và thuật toán để phân tích động học hình thái giúp các chuyên viên phôi học lựa chọn phôi có tỷ lệ làm tổ cao hơn. TLM cho phép theo dõi quá trình phát triển của phôi không bị gián đoạn bên trong tủ cấy, do đó luôn giữ cho điều kiện nuôi cấy được kiểm soát và ổn định. Các thông số hình thái được ghi nhận chính xác đã đặt ra câu hỏi liệu các thông số náy có thể dự đoán khả năng hình thành phôi nang, phôi dị bội hay tỷ lệ làm tổ.
Thuật toán về dữ liệu làm tổ KIDscoreTM Day 5 (KS5) xử lý các thông số động học hình thái phôi từ nguồn dữ liệu phôi lớn được chia sẻ bởi 24 trung tâm. Thuật toán cho phép đánh giá sự phát triển phôi nhanh hay chậm, sự phân cắt không đồng đều và phôi không đạt được sự phát triển tối ưu vào ngày 3 hoặc ngày 5. Do đó, thuật toán KS5 giúp phân biệt phôi ngày 3 và ngày 5 bình thường về hình thái trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các thuật toán có cơ sở dữ liệu đánh giá nhỏ và chưa được áp dụng thường xuyên trong đánh giá tiềm năng phát triển của phôi. Do đó, nghiên cứu nhằm mục đích xem xét khả năng làm tổ và tỷ lệ mang thai của phôi được chuyển bằng cách sử dụng KS5 như một công cụ bổ sung để đánh giá hình thái và PGT-A trong việc lựa chọn phôi chuyển.
Gazzo và cộng sự (2020) đã nghiên cứu trên 912 phôi từ 270 bệnh nhân trải qua thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF) tại Peru từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 6 năm 2018. Tất cả các phôi được nuôi cấy trong hệ thống TLM của Embryoscope® (Vitrolife ®, Canada) và đánh giá phôi dựa trên thuật toán KS5. Các phôi phải đạt đến giai đoạn phôi nang nở rộng hoàn toàn hoặc giai đoạn thoát màng mới được sinh thiết. Tổng số 778 phôi (85,31%) được sinh thiết và thủy tinh hóa cho đến khi có kết quả PGT-A. Trong 184 lần chuyển đơn phôi được chia làm 4 nhóm: nhóm 1) PGT-A + No KS5 (n=86); nhóm 2) PGT-A + KS5 (n=48); nhóm 3) No PGT-A + No KS5 (n=40); nhóm 4) No PGT-A + KS5 (n=10).
Kết quả lâm sàng của nhóm bệnh nhân có thực hiện PGT-A, nhóm 1 không xét điểm KS5 có tỷ lệ làm tổ (50%) và tỷ lệ thai diễn tiến (48,8%) khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm 2 có xem xét điểm KS5 lần lượt là 75% và 66,7% (p = 0,02 và p = 0,037). Kết quả lâm sàng của bệnh nhân nhóm 3 không thực hiện PGT-A, không xem xét điểm KS5 cho thấy tỷ lệ làm tổ (45%) và tỷ lệ thai diễn tiến (30%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nhóm 4 có xem xét điểm KS5 lần lượt là 60% và 20% (p = 0,396 và p = 0,529).
Ngoài ra, phôi nguyên bội có điểm KS5 lớn nhất (KS5 = 6, n = 25) có tỷ lệ làm tổ cao đáng kể so với phôi có điểm KS5 thấp nhất (KS5 = 1, n = 51) (80% so với 49%, p= 0,045). Tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê (72% so với 47,6%, p = 0,105). Đồng thời, tỷ lệ nguyên bội của phôi có điểm 6 cao hơn đáng kể so với phôi có điểm 1 (61,88% so với 48,3%, p = 0,006).
Tóm lại, hệ thống nuôi cấy phôi TLM cho thấy những lợi thế trong việc hỗ trợ sinh sản. Bên cạnh đó, việc lựa chọn phôi dựa trên thuật toán tính điểm KS5 đã giúp cải thiện tỷ lệ làm tổ. Hơn nữa, các phôi có điểm KS5 cao nhất cho xác suất phôi nguyên bội và làm tổ cao hơn. Do đó, các thuật toán nên được sử dụng như một công cụ hỗ trợ đánh giá hình thái học truyền thống và PGT-A trong việc lựa chọn phôi chuyển.
Nguồn: Gazzo, E., Peña, F., Valdéz, F., và cộng sự (2020). The KidscoreTM D5 algorithm as an additional tool to morphological assessment and PGT-A in embryo selection: a time-lapse study. JBRA assisted reproduction, 24(1), 55–60.
Để có được các ca sinh bé từ chuyển đơn phôi là một trong những thách thức lớn của hỗ trợ sinh sản. Có nhiều phương pháp để đánh giá tiềm năng phát triển của phôi, trong đó phổ biến nhất vẫn là hình thái học. Khi được bác sĩ chỉ định, xét nghiệm sàng lọc lệch bội nhiễm sắc thể (Preimplantation genetic testing for aneuploidy – PGT-A) là một biện pháp bổ sung để xác định cơ hội làm tổ cao hơn và sinh ra những đứa trẻ khỏe mạnh. Bên cạnh đó, với sự ra đời của hệ thống nuôi cấy phôi kết hợp với camera quan sát liên tục (Time-lapse monitoring – TLM) và thuật toán để phân tích động học hình thái giúp các chuyên viên phôi học lựa chọn phôi có tỷ lệ làm tổ cao hơn. TLM cho phép theo dõi quá trình phát triển của phôi không bị gián đoạn bên trong tủ cấy, do đó luôn giữ cho điều kiện nuôi cấy được kiểm soát và ổn định. Các thông số hình thái được ghi nhận chính xác đã đặt ra câu hỏi liệu các thông số náy có thể dự đoán khả năng hình thành phôi nang, phôi dị bội hay tỷ lệ làm tổ.
Thuật toán về dữ liệu làm tổ KIDscoreTM Day 5 (KS5) xử lý các thông số động học hình thái phôi từ nguồn dữ liệu phôi lớn được chia sẻ bởi 24 trung tâm. Thuật toán cho phép đánh giá sự phát triển phôi nhanh hay chậm, sự phân cắt không đồng đều và phôi không đạt được sự phát triển tối ưu vào ngày 3 hoặc ngày 5. Do đó, thuật toán KS5 giúp phân biệt phôi ngày 3 và ngày 5 bình thường về hình thái trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các thuật toán có cơ sở dữ liệu đánh giá nhỏ và chưa được áp dụng thường xuyên trong đánh giá tiềm năng phát triển của phôi. Do đó, nghiên cứu nhằm mục đích xem xét khả năng làm tổ và tỷ lệ mang thai của phôi được chuyển bằng cách sử dụng KS5 như một công cụ bổ sung để đánh giá hình thái và PGT-A trong việc lựa chọn phôi chuyển.
Gazzo và cộng sự (2020) đã nghiên cứu trên 912 phôi từ 270 bệnh nhân trải qua thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF) tại Peru từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 6 năm 2018. Tất cả các phôi được nuôi cấy trong hệ thống TLM của Embryoscope® (Vitrolife ®, Canada) và đánh giá phôi dựa trên thuật toán KS5. Các phôi phải đạt đến giai đoạn phôi nang nở rộng hoàn toàn hoặc giai đoạn thoát màng mới được sinh thiết. Tổng số 778 phôi (85,31%) được sinh thiết và thủy tinh hóa cho đến khi có kết quả PGT-A. Trong 184 lần chuyển đơn phôi được chia làm 4 nhóm: nhóm 1) PGT-A + No KS5 (n=86); nhóm 2) PGT-A + KS5 (n=48); nhóm 3) No PGT-A + No KS5 (n=40); nhóm 4) No PGT-A + KS5 (n=10).
Kết quả lâm sàng của nhóm bệnh nhân có thực hiện PGT-A, nhóm 1 không xét điểm KS5 có tỷ lệ làm tổ (50%) và tỷ lệ thai diễn tiến (48,8%) khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm 2 có xem xét điểm KS5 lần lượt là 75% và 66,7% (p = 0,02 và p = 0,037). Kết quả lâm sàng của bệnh nhân nhóm 3 không thực hiện PGT-A, không xem xét điểm KS5 cho thấy tỷ lệ làm tổ (45%) và tỷ lệ thai diễn tiến (30%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nhóm 4 có xem xét điểm KS5 lần lượt là 60% và 20% (p = 0,396 và p = 0,529).
Ngoài ra, phôi nguyên bội có điểm KS5 lớn nhất (KS5 = 6, n = 25) có tỷ lệ làm tổ cao đáng kể so với phôi có điểm KS5 thấp nhất (KS5 = 1, n = 51) (80% so với 49%, p= 0,045). Tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê (72% so với 47,6%, p = 0,105). Đồng thời, tỷ lệ nguyên bội của phôi có điểm 6 cao hơn đáng kể so với phôi có điểm 1 (61,88% so với 48,3%, p = 0,006).
Tóm lại, hệ thống nuôi cấy phôi TLM cho thấy những lợi thế trong việc hỗ trợ sinh sản. Bên cạnh đó, việc lựa chọn phôi dựa trên thuật toán tính điểm KS5 đã giúp cải thiện tỷ lệ làm tổ. Hơn nữa, các phôi có điểm KS5 cao nhất cho xác suất phôi nguyên bội và làm tổ cao hơn. Do đó, các thuật toán nên được sử dụng như một công cụ hỗ trợ đánh giá hình thái học truyền thống và PGT-A trong việc lựa chọn phôi chuyển.
Nguồn: Gazzo, E., Peña, F., Valdéz, F., và cộng sự (2020). The KidscoreTM D5 algorithm as an additional tool to morphological assessment and PGT-A in embryo selection: a time-lapse study. JBRA assisted reproduction, 24(1), 55–60.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tác dụng của huyết tương giàu tiểu cầu tự thân lên chất lượng tinh trùng người trong quá trình trữ lạnh - Ngày đăng: 10-10-2021
Tư vấn cho phụ nữ có thai về vaccine COVID-19 - Ngày đăng: 08-10-2021
Tiêm tinh tử đầu tròn vào noãn người: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 08-10-2021
Phác đồ khởi động trưởng thành noãn kép là chiến lược điều trị hiệu quả ở bệnh nhân đáp ứng bình thường và cao mà không ảnh hưởng đến kết quả mang thai trong các chu kỳ chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 05-10-2021
Sự thay đổi độ dày nội mạc tử cung sau khi dùng progesterone không ảnh hưởng đến kết quả mang thai trong chu kỳ chuyển phôi nang trữ nguyên bội: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 05-10-2021
Những rủi ro liên quan đến quá trình trữ lạnh ngân hàng tinh trùng tại thời điểm trong và sau đại dịch COVID-19 - Ngày đăng: 05-10-2021
Vitamin D có thể ngăn ngừa tổn thương đa cơ quan do nhiễm trùng gây ra bởi COVID-19 - Ngày đăng: 05-10-2021
Mối tương quan giữa chế độ ăn thực vật của mẹ và khói thuốc lá của bố với chất lượng phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 04-10-2021
Ảnh hưởng sớm và muộn của các gốc oxi hoá tự do trong tinh dịch đến sự phát triển của phôi sau khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 04-10-2021
Trữ lạnh tinh trùng trong tình hình dịch bệnh SARS-CoV-2 - Ngày đăng: 04-10-2021
Chiều dài telomere ở kỳ giữa nhiễm sắc thể của hợp tử tam bội ở người - Ngày đăng: 04-10-2021
Ảnh hưởng của số lượng phôi bào sống sau rã đông đến tiềm năng làm tổ của phôi - Ngày đăng: 03-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK