Tin tức
on Friday 08-10-2021 8:25am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Ngô Hoàng Tín - IVFVH
Trên thế giới, vô tinh (azoospermia - không có tinh trùng trong tinh dịch) chiếm khoảng 1% nam giới. Đối với trường hợp này, bệnh nhân cần thực hiện thủ thuật để thu mẫu tinh trùng. Tuy nhiên, theo nghiên cứu hồi cứu gần đây được công bố vào năm 2016 bởi Cissen và cộng sự cho thấy chỉ có 43,7% trường hợp vô tinh không bế tắc thực hiện thành công thủ thuật lấy tinh trùng từ tinh hoàn (TESE). Đồng thời, nghiên cứu hồi cứu của Vloeberghs và cộng sự (2015) cũng cho thấy chỉ 40,5% trường hợp vô tinh không bế tắc có tinh trùng trưởng thành tại lần đầu thực hiện thủ thuật TESE. Đối với bệnh nhân không có tinh trùng sau phẫu thuật, họ có rất ít lựa chọn. Tuy nhiên, người ta cho rằng tinh tử (tinh trùng chưa biệt hóa và trưởng thành) có thể được sử dụng thay thế cho tinh trùng trưởng thành trong những trường hợp này (tiêm tinh tử đầu tròn – ROSI)). Trong số những bệnh nhân vô tinh không bế tắc, không có tinh trùng trưởng thành hoặc tinh trùng ở giai đoạn cuối của quá trình trưởng thành từ mẫu tinh hoàn sau thủ thuật, có báo cáo cho rằng khoảng 30% bệnh nhân sẽ có tinh tử trong mẫu phẫu thuật của họ. Nghiên cứu này tiến hành đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp kết quả sau khi thực hiện ROSI.
Nghiên cứu tiến hành tổng quan hệ thống các nghiên cứu: (1) công bố báo cáo bệnh nhân nam trải qua ROSI; (2) cặp vợ chồng được chuyển phôi bằng cách sử dụng phôi tươi và / hoặc đông lạnh thu được từ quy trình ROSI; và (3) ấn phẩm, báo cáo kết quả mang thai (bao gồm tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ mang thai mỗi chu kỳ, tỷ lệ em bé sinh mỗi chu kỳ, tỷ lệ mang thai trên mỗi cặp vợ chồng và / hoặc tỷ lệ em bé sinh trên mỗi cặp vợ chồng). Tổng cộng có 22 nghiên cứu được đưa vào để phân tích, bao gồm 1099 cặp vợ chồng và 4218 ca chuyển phôi. Trong số 22 nghiên cứu được đưa vào phân tích, có 2 nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu và 20 là nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu.
Kết quả các nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ thụ tinh sau ROSI là 38,7% (95% KTC, 31,5 - 46,3), trong khi tỷ lệ có thai là 3,7% (95% KTC, 3,2 - 4,4). Tỷ lệ sinh sống thấp, với 4,3% trường hợp chuyển phôi có trẻ sinh sống (95% KTC, 2,3 - 7,7). Tỷ lệ có thai của mỗi cặp vợ chồng là 13,4% (95% KTC, 6,8 - 19,1) và tỷ lệ sinh sống là 8,1% (95% KTC, 6,1 - 14,4). Từ đó cho thấy, ROSI có thể có thai lâm sàng và trẻ sinh sống, nhưng tỷ lệ thành công thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ đạt được với tinh trùng trưởng thành.
Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ sinh sống thành công giảm đi rất nhiều và tiên lượng tương đối xấu với nhóm bệnh nhân thực hiện ROSI. Tuy nhiên, nhìn chung phương pháp này có thể là một giải pháp thay thế khả thi mang lại cơ hội có con cho những bệnh nhân không có tinh trùng.
Nguồn: Hanson, B. M., Kohn, T. P., Pastuszak, A. W., Scott, R. T., Jr, Cheng, P. J., & Hotaling, J. M. (2021). Round spermatid injection into human oocytes: a systematic review and meta-analysis. Asian journal of andrology, 23(4), 363–369. https://doi.org/10.4103/aja.aja_85_20.
Các tin khác cùng chuyên mục:












THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK