Tin tức
on Tuesday 05-10-2021 10:49pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi – IVFMDTB
Khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung (NMTC) là trạng thái tử cung cho phép phôi làm tổ và phát triển đồng bộ dưới tác dụng của các hormon buồng trứng. Thông thường, giai đoạn này diễn ra vào ngày 20-24 của chu kỳ kinh nguyệt với tên gọi “cửa sổ làm tổ”. Nguyên nhân rối loạn khả năng tiếp nhận của NMTC chiếm 2/3 trong số các ca thất bại làm tổ, do đó việc xác định “cửa sổ làm tổ” là vô cùng cần thiết và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định kết quả mang thai. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, siêu âm qua ngã âm đạo để đánh giá độ dày NMTC đã trở thành một phương pháp thường quy nhằm dự đoán khả năng tiếp nhận phôi của NMTC. Phương pháp này đã được chứng minh an toàn và chính xác hơn phương pháp sinh thiết NMTC có xâm lấn. Mặc dù nhiều nghiên cứu cho rằng không có mối tương quan giữa độ dày của NMTC và kết quả mang thai, nhưng một số tác giả vẫn tin rằng khi NMTC có độ dày dưới 7 hoặc 8 mm trước khi rụng trứng thì nên hủy chu kỳ điều trị do tỷ lệ thai thấp và tỷ lệ sảy thai cao. Ngược lại, tỷ lệ làm tổ và thai lâm sàng tốt nhất khi NMTC có độ dày từ 9-14 mm vào cuối giai đoạn tăng sinh. Tuy nhiên, thời điểm theo dõi NTMC ở các nghiên cứu có sự khác biệt do đó rất khó để so sánh. Cụ thể, các nghiên cứu chuyển phôi tươi thường tập trung vào giai đoạn trước rụng trứng trong khi nghiên cứu chuyển phôi trữ lại tập trung vào cuối giai đoạn tăng sinh của NMTC. Hơn nữa, trong các chu kì chuyển phôi trữ, NMTC chịu sự chi phối bởi một loạt các thay đổi nội tiết do quá trình sử dụng progesterone ngoại sinh. Do đó, việc đánh giá sự biến đổi về độ dày của NMTC sau khi sử dụng progesterone có thể là một yếu tố để dự đoán khả năng đậu thai. Tuy vậy, các nghiên cứu về mối tương quan giữa độ dày NMTC và kết quả mang thai sau khi dùng progesterone ngoại sinh còn hạn chế cũng như chưa có sự tương đồng về kết luận. Nhóm tác giả của nghiên cứu này cho rằng việc đánh giá độ dày NMTC sau khi dùng progesterone có ý nghĩa dự đoán kết quả mang thai hơn là chỉ nghiên cứu giá trị tuyệt đối của độ dày NMTC trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, nghiên cứu được tiến hành nhằm làm tìm hiểu mối tương quan giữa sự biến đổi độ dày NMTC vào ngày sử dụng progesterone ngoại sinh cho đến ngày chuyển phôi trong chu kỳ chuyển phôi trữ với kết quả mang thai.
Nghiên cứu hồi cứu (2021) được thực hiện tại trung tâm hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Trực thuộc đầu tiên của Đại học Trịnh Châu từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2019 trên 602 bệnh nhân. Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu đều mang đột biến mắc bệnh đơn gen hoặc chuyển đoạn nhiễm sắc thể. Vì vậy, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ được áp dụng để loại bỏ phôi bất thường. Sau quá trình sàng lọc các trường hợp có bệnh lý về NMTC, đánh giá độ dày NMTC bằng phương pháp siêu âm qua ngã âm đạo vào ngày chuyển phôi và ngày sử dụng progesterone, chỉ còn lại 508 bệnh nhân được phân tích kết quả. Các kết quả chính được đánh giá bao gồm tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nghiên cứu thu được một số kết quả như sau:
Nguồn: Ziqi Jin, M.M., Hao Shi, Ph.D., Manman Lu, Ph.D., Zhiqin Bu, Ph.D., Mingzhu Huo, M.M., and Yile Zhang, M.D. Endometrial thickness changes after progesterone administration do not affect the pregnancy outcomes of frozen-thawed euploid blastocyst transfer: a retrospective cohort study. Fertility and Sterility. September 15, 2021. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2021.08.008.
Khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung (NMTC) là trạng thái tử cung cho phép phôi làm tổ và phát triển đồng bộ dưới tác dụng của các hormon buồng trứng. Thông thường, giai đoạn này diễn ra vào ngày 20-24 của chu kỳ kinh nguyệt với tên gọi “cửa sổ làm tổ”. Nguyên nhân rối loạn khả năng tiếp nhận của NMTC chiếm 2/3 trong số các ca thất bại làm tổ, do đó việc xác định “cửa sổ làm tổ” là vô cùng cần thiết và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định kết quả mang thai. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, siêu âm qua ngã âm đạo để đánh giá độ dày NMTC đã trở thành một phương pháp thường quy nhằm dự đoán khả năng tiếp nhận phôi của NMTC. Phương pháp này đã được chứng minh an toàn và chính xác hơn phương pháp sinh thiết NMTC có xâm lấn. Mặc dù nhiều nghiên cứu cho rằng không có mối tương quan giữa độ dày của NMTC và kết quả mang thai, nhưng một số tác giả vẫn tin rằng khi NMTC có độ dày dưới 7 hoặc 8 mm trước khi rụng trứng thì nên hủy chu kỳ điều trị do tỷ lệ thai thấp và tỷ lệ sảy thai cao. Ngược lại, tỷ lệ làm tổ và thai lâm sàng tốt nhất khi NMTC có độ dày từ 9-14 mm vào cuối giai đoạn tăng sinh. Tuy nhiên, thời điểm theo dõi NTMC ở các nghiên cứu có sự khác biệt do đó rất khó để so sánh. Cụ thể, các nghiên cứu chuyển phôi tươi thường tập trung vào giai đoạn trước rụng trứng trong khi nghiên cứu chuyển phôi trữ lại tập trung vào cuối giai đoạn tăng sinh của NMTC. Hơn nữa, trong các chu kì chuyển phôi trữ, NMTC chịu sự chi phối bởi một loạt các thay đổi nội tiết do quá trình sử dụng progesterone ngoại sinh. Do đó, việc đánh giá sự biến đổi về độ dày của NMTC sau khi sử dụng progesterone có thể là một yếu tố để dự đoán khả năng đậu thai. Tuy vậy, các nghiên cứu về mối tương quan giữa độ dày NMTC và kết quả mang thai sau khi dùng progesterone ngoại sinh còn hạn chế cũng như chưa có sự tương đồng về kết luận. Nhóm tác giả của nghiên cứu này cho rằng việc đánh giá độ dày NMTC sau khi dùng progesterone có ý nghĩa dự đoán kết quả mang thai hơn là chỉ nghiên cứu giá trị tuyệt đối của độ dày NMTC trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, nghiên cứu được tiến hành nhằm làm tìm hiểu mối tương quan giữa sự biến đổi độ dày NMTC vào ngày sử dụng progesterone ngoại sinh cho đến ngày chuyển phôi trong chu kỳ chuyển phôi trữ với kết quả mang thai.
Nghiên cứu hồi cứu (2021) được thực hiện tại trung tâm hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Trực thuộc đầu tiên của Đại học Trịnh Châu từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2019 trên 602 bệnh nhân. Những bệnh nhân tham gia nghiên cứu đều mang đột biến mắc bệnh đơn gen hoặc chuyển đoạn nhiễm sắc thể. Vì vậy, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ được áp dụng để loại bỏ phôi bất thường. Sau quá trình sàng lọc các trường hợp có bệnh lý về NMTC, đánh giá độ dày NMTC bằng phương pháp siêu âm qua ngã âm đạo vào ngày chuyển phôi và ngày sử dụng progesterone, chỉ còn lại 508 bệnh nhân được phân tích kết quả. Các kết quả chính được đánh giá bao gồm tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nghiên cứu thu được một số kết quả như sau:
- Dựa vào sự khác biệt về độ dày NMTC giữa ngày chuyển phôi và ngày dùng progesterone, 508 bệnh nhân được chia thành 3 nhóm. Cụ thể, 19,49% (99/508) bệnh nhân giảm độ dày NMTC từ 10,03 ± 1,76 mm (dày nhất) vào ngày dùng progesterone xuống 8,77 ± 1,57 mm (mỏng nhất) vào ngày chuyển phôi. 47,24% (240/508) bệnh nhân tăng độ dày NMTC từ 9,03 ± 1,27 mm lên 10,58 ± 1,68 mm và 33,27% (169/508) bệnh nhân còn lại không thay đổi độ dày NMTC vào ngày chuyển phôi. 284/508 bệnh nhân có thai lâm sàng và 244/284 bệnh nhân có trẻ sinh sống.
- Khi so sánh đặc điểm bệnh nhân giữa ba nhóm trên, nhóm giảm độ dày NMTC có thời gian vô sinh ngắn hơn và tỷ lệ vô sinh thứ phát cao hơn. Tuy nhiên, ở cả 3 nhóm không có sự khác biệt về các đặc điểm như độ tuổi, chỉ số BMI, nồng độ hormone cơ bản và kết quả mang thai. Ngoài ra, trên tổng số bệnh nhân được phân tích, độ dày trung bình của NMTC vào ngày dùng progesterone là 9,31 ± 1,51mm và 9,80 ± 1,79 mm vào ngày chuyển phôi trữ.
- Qua phân tích hồi quy đơn biến, đa biến, phân tích nhóm nhỏ và phân tích độ nhạy đều không tìm thấy mối tương quan đáng kể nào giữa sự thay đổi độ dày NMTC đối với tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nguồn: Ziqi Jin, M.M., Hao Shi, Ph.D., Manman Lu, Ph.D., Zhiqin Bu, Ph.D., Mingzhu Huo, M.M., and Yile Zhang, M.D. Endometrial thickness changes after progesterone administration do not affect the pregnancy outcomes of frozen-thawed euploid blastocyst transfer: a retrospective cohort study. Fertility and Sterility. September 15, 2021. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2021.08.008.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Những rủi ro liên quan đến quá trình trữ lạnh ngân hàng tinh trùng tại thời điểm trong và sau đại dịch COVID-19 - Ngày đăng: 05-10-2021
Vitamin D có thể ngăn ngừa tổn thương đa cơ quan do nhiễm trùng gây ra bởi COVID-19 - Ngày đăng: 05-10-2021
Mối tương quan giữa chế độ ăn thực vật của mẹ và khói thuốc lá của bố với chất lượng phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 04-10-2021
Ảnh hưởng sớm và muộn của các gốc oxi hoá tự do trong tinh dịch đến sự phát triển của phôi sau khi tiêm tinh trùng vào bào tương noãn - Ngày đăng: 04-10-2021
Trữ lạnh tinh trùng trong tình hình dịch bệnh SARS-CoV-2 - Ngày đăng: 04-10-2021
Chiều dài telomere ở kỳ giữa nhiễm sắc thể của hợp tử tam bội ở người - Ngày đăng: 04-10-2021
Ảnh hưởng của số lượng phôi bào sống sau rã đông đến tiềm năng làm tổ của phôi - Ngày đăng: 03-10-2021
Chất lượng noãn ở những bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 03-10-2021
Tương quan giữa các nồng độ progesterone vào ngày chuyển phôi và kết quả thai trong các chu kỳ chuyển phôi trữ nhân tạo - Ngày đăng: 03-10-2021
THAY ĐỔI KINH NGUYỆT SAU KHI TIÊM VẮC XIN COVID-19 - Ngày đăng: 03-10-2021
Hiệu quả của việc bổ sung synbiotic và thay đổi lối sống ở phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 03-10-2021
Sự nhân lên của virus viêm gan B trong quá trình kích thích buồng trứng - Ngày đăng: 03-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK