Tin tức
on Thursday 04-11-2021 5:08pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Dương Nguyễn Duy Tuyền- IVFMD Bình Dương
Vô sinh được xác định khi có sự thất bại sau 12 tháng quan hệ tình dục thường xuyên và không áp dụng bất kỳ biện pháp ngừa thai nào do sự suy giảm khả năng sinh sản, và ảnh hưởng đến khoảng 7% nam giới. Nam giới góp phần vào 50% các trường hợp vô sinh, và chịu trách nhiệm hoàn toàn ở 20-30% các trường hợp vô sinh.
Vitamin D là loại vitamin duy nhất có thể được tổng hợp tại cơ thể theo cơ chế riêng liên quan đến việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, và nguồn vitamin D khác được cung cấp từ chế độ ăn uống như lòng đỏ trứng, dầu gan cá, ngũ cốc sữa và cá béo. Inhibin B là một heterodimeric glycoprotein bao gồm một tiểu đơn vị α chung và một tiểu đơn vị βB riêng. Ở nam giới, những protein này được tổng hợp tại tinh hoàn. Ngoài ra, quá trình sản xuất inhibin B được kích thích thông qua FSH tuyến yên.
Inhibin được đề nghị là dấu hiệu trực tiếp liên quan đến khả năng sinh tinh trong khi các nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc trưởng thành của tinh trùng và sự sinh tinh ở người.
Sự biểu hiện các thụ thể vitaminh D trong tinh trùng chủ yếu nằm ở phần giữa và đầu/nhân cho thấy vai trò của vitamin D trong các chức năng của nhân và / hoặc chức năng DNA của ty thể. Ngoài ra, biểu hiện thụ thể vitamin D giảm ở nam giới có tinh trùng di động thấp. Vitamin D rất quan trọng đối với việc tối ưu hóa chức năng tinh trùng và có tương quan thuận (P < 0,05) với tỷ lệ tinh trùng di động tiến tới và tổng số tinh trùng di động .
Inhibin B đã được sử dụng trong lâm sàng để phân biệt các bệnh nhân vô sinh nam trong điều trị, mặc dù nó không phải là một trong những yếu tố dự đoán có độ nhạy cao. Ngoài ra, nồng độ inhibin B trong huyết thanh thấp đáng kể ở nam giới bị rối loạn chức năng tinh hoàn so với nam giới bình thường và cũng có tương quan thuận với các dấu hiệu liên quan đến sự sinh tinh bao gồm thể tích tinh hoàn, tổng số tinh trùng, mật độ tinh trùng. Nồng độ inhibin B được coi là dấu hiệu có độ nhạy cao liên quan đến các yếu tố vô sinh nam hơn các hormone khác. Inhibin B cũng là dấu hiệu trực tiếp liên quan đến chức năng tế bào Sertoli cũng như dấu hiệu gián tiếp cho khả năng sinh tinh.
Nhóm tác giả Ahmed và cộng sự (2020) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá vai trò của vitamin D, Inhibin-B với chất lượng tinh dịch ở nam giới vô sinh Iraq được thực hiện từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019, tại Bệnh viện Ar-Razii, phòng thí nghiệm Al-afia, phòng thí nghiệm alpha và phòng thí nghiệm Al-mawada bằng cách lấy mẫu bệnh nhân vô sinh nam và nhóm chứng. Dữ liệu thu thập được bao gồm một bảng câu hỏi đầy đủ (gồm tuổi, cân nặng, chiều cao, chỉ số khối cơ thể, khu vực sinh sống, có hút thuốc lá hay không, có bệnh mãn tính bao gồm tiểu đường và các bệnh khác hay không). Nghiên cứu bao gồm những nam giới vô sinh từ 18-48 tuổi và được chẩn đoán bởi các bác sĩ và chưa thực hiện bất kỳ phương pháp điều trị nào. Số lượng mẫu thu được là 89 mẫu với 30 mẫu đối chứng và 59 mẫu vô sinh. Bệnh nhân được lấy 6-8ml máu tĩnh mạch và ly tâm thu nhận huyết thanh để tiến hành xét nghiệm nội tiết và hàm lượng vitamin D. Các xét nghiệm được thực hiện theo hướng dẫn tại phòng xét nghiệm. Tinh dịch được thu nhận và đánh giá các chỉ số về thể tích, mật độ tinh trùng, tổng số tinh trùng, các dạng di động và hình dạng tinh trùng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thể tích, nồng độ và di động giữa hai nhóm bệnh nhân. Cụ thể, thể tích tinh dịch thấp hơn đáng kể ở nhóm vô sinh (1,87 ± 0,94) khi so với nhóm nam giới hiếm muộn (2,32 ± 0,53) (P=0,006). Mật độ tinh trùng cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm vô sinh với giá trị trung bình là 24,61 ± 25,83 (P=0,001). Các hình dạng tinh trùng khác nhau có ý nghĩa giữa hai nhóm với giá trị P là 0,001. Di động loại A và B cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm vô sinh với giá trị trung bình là 7,17 ± 5,73 và 49,71 ± 26,27 tương ứng. Di động loại D cao hơn ở nhóm hiếm muộn so với nhóm sinh sản bình thường có giá trị trung bình lần lượt là 49,71 ± 26,27 và 25,13 ± 8,05. Mức vitamin D cao hơn đáng kể ở nhóm bình thường so với nhóm hiếm muộn lần lượt là 38,12 ± 7,99 và 20,98 ± 6,95 (P=0,001).
Nồng độ vitamin D cao hơn đáng kể ở nhóm bình thường so với nhóm hiếm muộn 38,12 ± 7,99 và 20,98 ± 6,95 tương ứng với giá trị P là 0,001. Không có sự khác biệt đáng kể nào được phát hiện giữa các nhóm nam giới vô sinh và bình thường về chỉ số Inhibin B.
Trong nghiên cứu này, không có mối quan hệ nào được phát hiện giữa Inhibin B cũng như vitamin D và các biến số như thể tích tinh dịch, hình dạng và mật độ tinh trùng. Tuy nhiên, mối tương quan nghịch được phát hiện giữa hình dạng và sự thay đổi pH tinh dịch ở những nhóm bệnh nhân này (r=0,34). Nghiên cứu cũng cho thấy có mối tương quan giữa inhibin B và tinh trùng di động loại C và không có mối tương quan giữa vitamin D và khả năng di động của tinh trùng.
Các thông số tinh dịch bị ảnh hưởng nhiều bởi sự trao đổi chất chung của cơ thể. Hormone Inhibin B có liên quan đến quá trình sinh tinh. Vitamin D có một vai trò quan trọng đối với chất lượng của tinh trùng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy có mối quan hệ giữa Vitamin D, Inhibin B và vô sinh nam. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả không tìm thấy mối tương quan nào giữa vitamin D, Inhibin-B và các thông số như thể tích tinh dịch, hình dạng và mật độ tinh trùng.
Nguồn: Ahmed, Haya Akram; Ali, Hameed Hussain; Jaffal, Waleed Nassar “Relationship between Vitamin D, Inhibin B, and seminal plasma parameters in a sample of infertile Iraqi men”. EurAsian Journal of Biosciences . Aug-Dec2020, Vol. 14 Issue 2, p7341-7346. 6p.
Vô sinh được xác định khi có sự thất bại sau 12 tháng quan hệ tình dục thường xuyên và không áp dụng bất kỳ biện pháp ngừa thai nào do sự suy giảm khả năng sinh sản, và ảnh hưởng đến khoảng 7% nam giới. Nam giới góp phần vào 50% các trường hợp vô sinh, và chịu trách nhiệm hoàn toàn ở 20-30% các trường hợp vô sinh.
Vitamin D là loại vitamin duy nhất có thể được tổng hợp tại cơ thể theo cơ chế riêng liên quan đến việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, và nguồn vitamin D khác được cung cấp từ chế độ ăn uống như lòng đỏ trứng, dầu gan cá, ngũ cốc sữa và cá béo. Inhibin B là một heterodimeric glycoprotein bao gồm một tiểu đơn vị α chung và một tiểu đơn vị βB riêng. Ở nam giới, những protein này được tổng hợp tại tinh hoàn. Ngoài ra, quá trình sản xuất inhibin B được kích thích thông qua FSH tuyến yên.
Inhibin được đề nghị là dấu hiệu trực tiếp liên quan đến khả năng sinh tinh trong khi các nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc trưởng thành của tinh trùng và sự sinh tinh ở người.
Sự biểu hiện các thụ thể vitaminh D trong tinh trùng chủ yếu nằm ở phần giữa và đầu/nhân cho thấy vai trò của vitamin D trong các chức năng của nhân và / hoặc chức năng DNA của ty thể. Ngoài ra, biểu hiện thụ thể vitamin D giảm ở nam giới có tinh trùng di động thấp. Vitamin D rất quan trọng đối với việc tối ưu hóa chức năng tinh trùng và có tương quan thuận (P < 0,05) với tỷ lệ tinh trùng di động tiến tới và tổng số tinh trùng di động .
Inhibin B đã được sử dụng trong lâm sàng để phân biệt các bệnh nhân vô sinh nam trong điều trị, mặc dù nó không phải là một trong những yếu tố dự đoán có độ nhạy cao. Ngoài ra, nồng độ inhibin B trong huyết thanh thấp đáng kể ở nam giới bị rối loạn chức năng tinh hoàn so với nam giới bình thường và cũng có tương quan thuận với các dấu hiệu liên quan đến sự sinh tinh bao gồm thể tích tinh hoàn, tổng số tinh trùng, mật độ tinh trùng. Nồng độ inhibin B được coi là dấu hiệu có độ nhạy cao liên quan đến các yếu tố vô sinh nam hơn các hormone khác. Inhibin B cũng là dấu hiệu trực tiếp liên quan đến chức năng tế bào Sertoli cũng như dấu hiệu gián tiếp cho khả năng sinh tinh.
Nhóm tác giả Ahmed và cộng sự (2020) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá vai trò của vitamin D, Inhibin-B với chất lượng tinh dịch ở nam giới vô sinh Iraq được thực hiện từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019, tại Bệnh viện Ar-Razii, phòng thí nghiệm Al-afia, phòng thí nghiệm alpha và phòng thí nghiệm Al-mawada bằng cách lấy mẫu bệnh nhân vô sinh nam và nhóm chứng. Dữ liệu thu thập được bao gồm một bảng câu hỏi đầy đủ (gồm tuổi, cân nặng, chiều cao, chỉ số khối cơ thể, khu vực sinh sống, có hút thuốc lá hay không, có bệnh mãn tính bao gồm tiểu đường và các bệnh khác hay không). Nghiên cứu bao gồm những nam giới vô sinh từ 18-48 tuổi và được chẩn đoán bởi các bác sĩ và chưa thực hiện bất kỳ phương pháp điều trị nào. Số lượng mẫu thu được là 89 mẫu với 30 mẫu đối chứng và 59 mẫu vô sinh. Bệnh nhân được lấy 6-8ml máu tĩnh mạch và ly tâm thu nhận huyết thanh để tiến hành xét nghiệm nội tiết và hàm lượng vitamin D. Các xét nghiệm được thực hiện theo hướng dẫn tại phòng xét nghiệm. Tinh dịch được thu nhận và đánh giá các chỉ số về thể tích, mật độ tinh trùng, tổng số tinh trùng, các dạng di động và hình dạng tinh trùng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thể tích, nồng độ và di động giữa hai nhóm bệnh nhân. Cụ thể, thể tích tinh dịch thấp hơn đáng kể ở nhóm vô sinh (1,87 ± 0,94) khi so với nhóm nam giới hiếm muộn (2,32 ± 0,53) (P=0,006). Mật độ tinh trùng cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm vô sinh với giá trị trung bình là 24,61 ± 25,83 (P=0,001). Các hình dạng tinh trùng khác nhau có ý nghĩa giữa hai nhóm với giá trị P là 0,001. Di động loại A và B cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm vô sinh với giá trị trung bình là 7,17 ± 5,73 và 49,71 ± 26,27 tương ứng. Di động loại D cao hơn ở nhóm hiếm muộn so với nhóm sinh sản bình thường có giá trị trung bình lần lượt là 49,71 ± 26,27 và 25,13 ± 8,05. Mức vitamin D cao hơn đáng kể ở nhóm bình thường so với nhóm hiếm muộn lần lượt là 38,12 ± 7,99 và 20,98 ± 6,95 (P=0,001).
Nồng độ vitamin D cao hơn đáng kể ở nhóm bình thường so với nhóm hiếm muộn 38,12 ± 7,99 và 20,98 ± 6,95 tương ứng với giá trị P là 0,001. Không có sự khác biệt đáng kể nào được phát hiện giữa các nhóm nam giới vô sinh và bình thường về chỉ số Inhibin B.
Trong nghiên cứu này, không có mối quan hệ nào được phát hiện giữa Inhibin B cũng như vitamin D và các biến số như thể tích tinh dịch, hình dạng và mật độ tinh trùng. Tuy nhiên, mối tương quan nghịch được phát hiện giữa hình dạng và sự thay đổi pH tinh dịch ở những nhóm bệnh nhân này (r=0,34). Nghiên cứu cũng cho thấy có mối tương quan giữa inhibin B và tinh trùng di động loại C và không có mối tương quan giữa vitamin D và khả năng di động của tinh trùng.
Các thông số tinh dịch bị ảnh hưởng nhiều bởi sự trao đổi chất chung của cơ thể. Hormone Inhibin B có liên quan đến quá trình sinh tinh. Vitamin D có một vai trò quan trọng đối với chất lượng của tinh trùng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy có mối quan hệ giữa Vitamin D, Inhibin B và vô sinh nam. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả không tìm thấy mối tương quan nào giữa vitamin D, Inhibin-B và các thông số như thể tích tinh dịch, hình dạng và mật độ tinh trùng.
Nguồn: Ahmed, Haya Akram; Ali, Hameed Hussain; Jaffal, Waleed Nassar “Relationship between Vitamin D, Inhibin B, and seminal plasma parameters in a sample of infertile Iraqi men”. EurAsian Journal of Biosciences . Aug-Dec2020, Vol. 14 Issue 2, p7341-7346. 6p.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tương quan giữa trào ngược tinh dịch và tỷ lệ mang thai trong IUI - Ngày đăng: 04-11-2021
Thủy tinh hóa noãn ảnh hưởng tiêu cực lên khả năng giải phóng Ca2+ và khả năng hoạt hóa noãn ở noãn chuột nhưng cung cấp thông tin hữu ích cho mục đích điều trị - Ngày đăng: 04-11-2021
Chuẩn bị tinh trùng trước đông lạnh có tốt hơn sau đông lạnh không? - Ngày đăng: 04-11-2021
Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đối với thời kỳ đầu mang thai: tỷ lệ sẩy thai có thay đổi ở phụ nữ nhiễm virus không có triệu chứng? - Ngày đăng: 02-11-2021
Thuật toán máy học dùng pH nội bào của tinh trùng tiên lượng tỉ lệ thành công của thụ tinh ống nghiệm cổ điển ở nam giới bình thường - Ngày đăng: 31-10-2021
Tác động của lạc nội mạc tử cung lên hình thái noãn trong IVF-ICSI: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với hơn 6000 noãn trưởng thành - Ngày đăng: 31-10-2021
Tổng quan về quản lý trong labo và lâm sàng liên quan đến bạch cầu và hồng cầu cao trong tinh dịch - Ngày đăng: 31-10-2021
Tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp khi sử dụng tinh trùng có khả năng liên kết với zona pellucida như một cách chọn lọc tự nhiên để cải thiện kết quả ICSI - Ngày đăng: 31-10-2021
Xác định các cytokine trong tinh tương liên quan đến tuổi bố và lối sống trong các trường hợp sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 31-10-2021
Mối liên quan giữa chỉ số khối cơ thể ở nữ giới với tỉ lệ phôi nang nguyên bội và tỉ lệ trẻ sinh sống - Ngày đăng: 31-10-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK