Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 04-11-2021 11:17am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Thị Kim Ngân - IVFMD Tân Bình

Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine insemination - IUI) là một thủ thuật điều trị vô sinh tương đối đơn giản và chi phí thấp. IUI thường thực hiện trước khi tiến hành các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản xâm lấn và tốn kém hơn như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hay tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI). Các chỉ định cho IUI bao gồm vô sinh do yếu tố nam từ nhẹ đến trung bình, vô sinh không rõ nguyên nhân, xin tinh trùng, lạc nội mạc tử cung, không có khả năng mang thai bằng giao hợp âm đạo, chồng bị nhiễm HIV hay vô sinh do yếu tố cổ tử cung. Tỷ lệ mang thai được công bố sau IUI có thể thay đổi giữa các nghiên cứu do tiêu chí lựa chọn bệnh nhân, việc chẩn đoán vô sinh, phác đồ kích thích buồng trứng, số lượng nang noãn thu được sau khi kích thích buồng trứng, số chu kỳ thực hiện, các thông số tinh trùng và việc chuẩn bị tinh trùng cho IUI. Các nghiên cứu lâm sàng được công bố trước đây đã xác định nhiều yếu tố liên quan đến việc tăng tỷ lệ mang thai trong IUI, bao gồm thời gian kiêng giao hợp, hình thái tinh trùng bình thường, số lượng, thể tích, khả năng di chuyển của tinh trùng và tổng tinh trùng di động (total motile count – TMC) sau lọc rửa.
 
Trong quy trình IUI, ống thông được đưa vào buồng tử cung và một mẫu tinh trùng cô đặc sẽ được bơm vào. Trong khi bơm hoặc khi rút ống thông, đôi khi có một dòng chảy ngược của mẫu từ cổ tử cung, được gọi là trào ngược mẫu. Người ta giả thuyết rằng quá trình trào ngược mẫu có thể làm giảm tổng tinh trùng di động được dẫn tinh, do vậy có khả năng sẽ làm giảm tỷ lệ mang thai. Mối quan hệ giữa tình trạng trào ngược mẫu IUI và kết quả điều trị chưa được biết đến đầy đủ. Nghiên cứu duy nhất của tác giả Marshburn P.B. và cộng sự (2005) cho thấy tỷ lệ trào ngược mẫu khác nhau khi sử dụng 2 catheter khác nhau nhưng không có sự khác biệt đáng kể về kết quả mang thai. Tác giả Storer B. và cộng sự (2021) đã tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định xem quá trình trào ngược mẫu trong IUI liệu có thực sự ảnh hưởng đến kết quả mang thai hay không.
 
Nghiên cứu được tiến hành hồi cứu kết quả từ tháng 7/2007 đến tháng 5/2012 với tổng số 2.221 chu kỳ IUI được đưa vào phân tích. Tinh trùng sẽ được chuẩn bị bằng phương pháp gradient (với mẫu có TMC > 20.106), hoặc rửa đơn thuần (với mẫu có TMC = 20.106), hoặc chỉ rã (với mẫu trữ đã được lọc rửa trước đó). IUI sẽ được thực hiện khoảng 36 giờ sau khi tiêm hCG. Các đặc điểm trong quá IUI được ghi nhận lại như: mức độ thực hiện dễ/vừa/khó, catheter bị uốn cong, mẫu trào ngược, chảy máu từ cổ tử cung hay không và loại catheter được sử dụng. Các phân tích sẽ được tiến hành nhằm đánh giá mối tương quan giữa quá trình trào ngược mẫu và kết quả thai sau IUI.
 
Kết quả thu được như sau:
- 1.957/2.221 chu kỳ IUI được sử dụng cho nghiên cứu với 660 phụ nữ (độ tuổi trung bình 31,9 ± 4,9).
- Quá trình trào ngược mẫu được ghi nhận ở 715/1.957 chu kỳ IUI (chiếm 36,5%).
- Các đặc điểm nền bao gồm tuổi, BMI, TMC, phương pháp chuẩn bị tinh trùng, loại thuốc được sử dụng để kích thích buồng trứng có kiểm soát, thời gian vô sinh, chẩn đoán vô sinh, chủng tộc, dân tộc, số chu kỳ của mỗi cặp vợ chồng không có khác biệt đáng kể giữa các bệnh nhân có trào ngược mẫu và không trào ngược mẫu.
- Không có sự khác biệt thống kê về tỷ lệ thai lâm sàng (10,5% so với 10,0%, RR = 0,99, 95% KTC, 0,73–1,35) hoặc tỷ lệ sinh sống (6,3% so với 6,8%, RR = 0,82, 95% KTC, 0,53–1,26) khi so sánh các chu kỳ IUI có trào ngược mẫu với các chu kỳ không trào ngược mẫu.
- Tỷ lệ mang thai ở mỗi chu kỳ cũng không khác biệt giữa có trào ngược mẫu và không trào ngược mẫu (tương ứng 15,0% so với 15,4%, RR = 0,97, 95% KTC, 0,75–1,24).
- Các đặc điểm được ghi nhận trong quá trình IUI được kiểm tra và cho thấy không phải là yếu tố gây nhiễu.
- Kết quả không thay đổi khi điều chỉnh theo hiệp biến (covariate) (tuổi, chủng tộc và dân tộc, BMI, thời gian vô sinh, loại thuốc cho kích thích buồng trứng, chẩn đoán vô sinh, TMC và phương pháp chuẩn bị tinh trùng).
 
Trào ngược mẫu thường diễn tra trong các chu kỳ IUI và trong nghiên cứu này, cho thấy sự hiện diện của hiện tượng trào ngược mẫu không liên quan đến kết quả mang thai. Đây là một phát hiện quan trọng và hiện tại chưa có nghiên cứu nào cho thấy tình trạng trào ngược mẫu làm ảnh hưởng đến tỷ lệ mang thai sau IUI.
 
Nguồn: Craig, L. B., Arya, S., Burks, H. R., Warta, K., Jarshaw, C., Hansen, K. R., & Peck, J. D., Relationship between semen regurgitation and pregnancy rates with intrauterine insemination. Fertility and Sterility 2021.

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK