Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 28-04-2020 5:20pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Huỳnh Trọng Kha – IVFMD Tân Bình

Chất lượng noãn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến kết cục điều trị hỗ trợ sinh sản, trong đó, sự xuất hiện của SER (smooth endoplasmic reticulum) trong noãn làm tăng dự trữ canxi nội bào nên có thể ảnh hưởng đến nồng độ canxi nội bào được giải phóng trong quá trình thụ tinh. Từ đó dẫn đến cản trở sự hình thành tiền nhân, đồng thời tác động tiêu cực lên sự phát triển và làm tổ của phôi (Ebner et al. 2008; Otsuki et al. 2004). Tuy nhiên, cơ chế hình thành và ảnh hưởng của SER đến nay vẫn còn nhiều giả thuyết chưa được làm rõ. Vì vậy, năm 2011, trong đồng thuận của 2 hiệp hội Alpha và ESHRE thì những noãn bị SER sẽ hạn chế sử dụng. Gần đây, một nghiên cứu cho thấy việc chuyển những phôi có nguồn gốc từ noãn tồn tại SER vẫn có thể sinh ra những em bé khỏe mạnh (Mateizel et al. 2013). Do đó, trong nghiên cứu của Itoi và cộng sự (2017), tác giả thực hiện trên cả chu kì IVF và ICSI với mục tiêu đánh giá rõ ràng kết quả lâm sàng trong chuyển phôi nang có nguồn gốc từ noãn SER.

Tác giả thực hiện hồi cứu từ 5/2010 đến 12/2014 trên 1561 bệnh nhân (1050 IVF và 511 ICSI) ở ba trung tâm IVF lớn thuộc Nhật Bản. Tất cả bệnh nhân sẽ được kích thích buồng trứng, thu noãn, thực hiện thụ tinh IVF/ICSI, đánh giá thụ tinh, cũng như đánh giá chất lượng phôi ngày 3 và ngày 5 đều dựa theo những đồng thuận và quy trình chuẩn trên thế giới. Cuối cùng, phôi sẽ được trữ lạnh vào ngày 5 hoặc ngày 6 bằng phương pháp thủy tinh hóa để chuẩn bị cho việc chuyển phôi trữ ở chu kì sau.

Kết quả thu được như sau:
  • Trong quan sát dựa vào hệ thống camera liên tục (Timelapse), tác giả thấy rằng, SER biến mất trước khi noãn hình thành thể cực thứ 2 của cả IVF/ ICSI và thời gian đó trong khoảng 5.43 ± 1.09 giờ sau ICSI, 6.16 ± 1.06 giờ sau IVF. Tuy nhiên, trong trường hợp thất bại thụ tinh thì SER không biến mất.
  • Tổng liều Gonadotrophins, nồng độ Oestradiol và Progesterone trong huyết thanh cao hơn đáng kể ở các chu kỳ có noãn SER so với chu kỳ không có SER (P <0.05). Số noãn thu nhận được cũng cho kết quả tương tự (P<0.05).
  • Tỷ lệ 2PN (Pronucleus), phôi có chất lượng tốt vào ngày 3, tỷ lệ hình thành phôi nang và phôi nang chất lượng tốt không khác biệt đáng kể giữa noãn có SER so với noãn không có SER (P>0.05).
  • Tỷ lệ thai lâm sàng và kết quả chu sinh giữa chu kì IVF với chu kì ICSI, cũng như giữa các chu kì có noãn SER với các chu kì noãn bình thường đều không có sự khác biệt thống kê (P>0.05). Tổng cộng có 52 phôi nang (27 IVF và 25 ICSI) từ noãn SER được chuyển phôi, kết quả là sự ra đời của 15 trẻ khỏe mạnh bình thường (5 IVF và 10 ICSI).
Từ nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng phôi nang có nguồn gốc từ noãn mang SER có thể mang lại một tỉ lệ thai chấp nhận được. Đồng thời, nghiên cứu cũng làm rõ không có sự khác biệt về khả năng tạo phôi cũng như kết cục lâm sàng giữa hai kỹ thuật tạo phôi là IVF và ICSI trên noãn SER. Tuy nhiên, việc sử dụng noãn SER cần cân nhắc kĩ và tuân thủ theo các đồng thuận của hai hiệp hội Alpha và ESHRE để mang lại hiệu quả an toàn cho bệnh nhân.

Nguồn: Itoi, F., Asano, Y., Shimizu, M., Nagai, R., Saitou, K., Honnma, H., & Murata, Y. (2017). Clinical outcomes after IVF or ICSI using human blastocysts derived from oocytes containing aggregates of smooth endoplasmic reticulum. Reproductive BioMedicine Online, 34(4), 337–344. doi:10.1016/j.rbmo.2017.01.007

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK