Tin tức
on Wednesday 05-12-2018 8:15am
Danh mục: Tin quốc tế
Hiện nay đã có nhiều dữ liệu cho thấy chuyển phôi tươi giai đoạn phôi dâu (morulae) vào ngày 4 cho tỉ lệ thai tốt, tuy nhiên đối với những phôi phát triển chậm vào ngày 5 vẫn ở giai đoạn phôi dâu hoặc phôi dâu đã bắt đầu có khoang phôi (CAVM - cavitating morulae) thì vẫn chưa có dữ liệu về tiềm năng phát triển của những phôi này.
Một nghiên cứu vào năm 2018 của nhóm tác giả Jigal Haas tiến hành so sánh tiềm năng phôi giữa 2 nhóm phôi phát triển chậm vào ngày 5: phôi dâu và phôi CAVM ở những chu kì chuyển phôi trữ. Kết cục chính của nghiên cứu là tỉ lệ tạo phôi nang, kết cục phụ là tỉ lệ thai lâm sàng và thai diễn tiến giữa 2 nhóm trên.
Tại trung tâm của nhóm tác giả, nếu những chu kì không có phôi nang vào ngày 5 để chuyển, họ sẽ chuyển phôi dâu hoặc phôi CAVM. Nếu ngày 5 có phôi nang, những phôi chậm còn lại sẽ nuôi đến ngày 6. Ở ngày 6, chỉ những phôi nang nở hoàn toàn mới được sử dụng.
Kết quả nghiên cứu như sau:
Đối với các chu kì chuyển phôi tươi: có 186 BN với 82 phôi giai đoạn phôi dâu và 104 phôi giai đoạn phôi CAVM. Tỉ lệ thai (15,8% so với 21,1%) và thai diễn tiến (15,8% so với 17,3%) không khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm.
Đối với nhóm nghiên cứu: có 3321 chu kì gồm 10304 phôi chậm ngày 5 (5395 phôi dâu và 4909 phôi CAVM ngày 5). Tỉ lệ tạo phôi nang cao hơn có ý nghĩa ở nhóm CAVM so với nhóm phôi dâu (39,2% so với 20,4%). Trong đó có 201 chu kì CPT: 77 phôi nang phát triển từ nhóm phôi dâu và 124 phôi nang từ nhóm CAVM. Tỉ lệ thai lâm sàng là tương đương giữa 2 nhóm (21,3% so với 24,7%). Tuy nhiên tỉ lệ sẩy thai rất cao ở nhóm phôi dâu (37,5%), nhưng do cỡ mẫu nhỏ nên chưa thể kết luận được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm CAVM (16,7%). Nguyên nhân sẩy thai cao ở nhóm phôi dâu có thể do tỉ lệ phôi lệch bội cao (các báo cáo trước đã chứng minh).
Kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy ở các chu kì chuyển phôi tươi, các phôi phát triển chậm ở giai đoạn ngày 5 cho tỉ lệ thai diễn tiến tương đối hợp lí (15-17%), trong khi đó, nếu chuyển phôi trữ ở trường hợp phôi phát triển chậm, phải nuôi thêm 1 ngày nữa, cho thấy kết cục thai diễn tiến theo lí thuyết mà nhóm tác giả ước tính rất thấp (2,71% đối với một phôi dâu và 8,1% đối với một phôi CAVM). Do đó đối với các trường hợp phôi chậm phát triển, chuyển phôi tươi các phôi dâu hoặc CAVM có vẻ cải thiện kết cục chu kì hơn so với việc nuôi cấy phôi thêm một ngày, trữ phôi lại và chuyển phôi trữ. Cần thêm nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên có đối chứng để kiểm định lại các kết quả này.
Hà Thị Diễm Uyên - Chuyên viên phôi học - IVFMD Tân Bình
Nguồn: Developmental potential of slow-developing embryos: day-5 morulae compared with day-5 cavitating morulae. Fertil Steril 2018, pii: S0015-0282(18)31892-2.
Một nghiên cứu vào năm 2018 của nhóm tác giả Jigal Haas tiến hành so sánh tiềm năng phôi giữa 2 nhóm phôi phát triển chậm vào ngày 5: phôi dâu và phôi CAVM ở những chu kì chuyển phôi trữ. Kết cục chính của nghiên cứu là tỉ lệ tạo phôi nang, kết cục phụ là tỉ lệ thai lâm sàng và thai diễn tiến giữa 2 nhóm trên.
Tại trung tâm của nhóm tác giả, nếu những chu kì không có phôi nang vào ngày 5 để chuyển, họ sẽ chuyển phôi dâu hoặc phôi CAVM. Nếu ngày 5 có phôi nang, những phôi chậm còn lại sẽ nuôi đến ngày 6. Ở ngày 6, chỉ những phôi nang nở hoàn toàn mới được sử dụng.
Kết quả nghiên cứu như sau:
Đối với các chu kì chuyển phôi tươi: có 186 BN với 82 phôi giai đoạn phôi dâu và 104 phôi giai đoạn phôi CAVM. Tỉ lệ thai (15,8% so với 21,1%) và thai diễn tiến (15,8% so với 17,3%) không khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm.
Đối với nhóm nghiên cứu: có 3321 chu kì gồm 10304 phôi chậm ngày 5 (5395 phôi dâu và 4909 phôi CAVM ngày 5). Tỉ lệ tạo phôi nang cao hơn có ý nghĩa ở nhóm CAVM so với nhóm phôi dâu (39,2% so với 20,4%). Trong đó có 201 chu kì CPT: 77 phôi nang phát triển từ nhóm phôi dâu và 124 phôi nang từ nhóm CAVM. Tỉ lệ thai lâm sàng là tương đương giữa 2 nhóm (21,3% so với 24,7%). Tuy nhiên tỉ lệ sẩy thai rất cao ở nhóm phôi dâu (37,5%), nhưng do cỡ mẫu nhỏ nên chưa thể kết luận được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm CAVM (16,7%). Nguyên nhân sẩy thai cao ở nhóm phôi dâu có thể do tỉ lệ phôi lệch bội cao (các báo cáo trước đã chứng minh).
Kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy ở các chu kì chuyển phôi tươi, các phôi phát triển chậm ở giai đoạn ngày 5 cho tỉ lệ thai diễn tiến tương đối hợp lí (15-17%), trong khi đó, nếu chuyển phôi trữ ở trường hợp phôi phát triển chậm, phải nuôi thêm 1 ngày nữa, cho thấy kết cục thai diễn tiến theo lí thuyết mà nhóm tác giả ước tính rất thấp (2,71% đối với một phôi dâu và 8,1% đối với một phôi CAVM). Do đó đối với các trường hợp phôi chậm phát triển, chuyển phôi tươi các phôi dâu hoặc CAVM có vẻ cải thiện kết cục chu kì hơn so với việc nuôi cấy phôi thêm một ngày, trữ phôi lại và chuyển phôi trữ. Cần thêm nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên có đối chứng để kiểm định lại các kết quả này.
Hà Thị Diễm Uyên - Chuyên viên phôi học - IVFMD Tân Bình
Nguồn: Developmental potential of slow-developing embryos: day-5 morulae compared with day-5 cavitating morulae. Fertil Steril 2018, pii: S0015-0282(18)31892-2.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Biến chứng thai kì trong những chu kì chuyển phôi trữ so với chuyển phôi tươi ở bệnh nhân hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) - Ngày đăng: 03-12-2018
Tỷ lệ trẻ sinh sống giảm khi chuyển những phôi khảm cấu trúc nhiễm sắc thể sau thực hiện kỹ thuật phân tích di truyền tiền làm tổ (PGT-A) - Ngày đăng: 30-11-2018
Sinh thiết phôi nang và các thao tác phòng thí nghiệm không làm ảnh hưởng đến đặc điểm phôi sau rã đông cũng như tỷ lệ làm tổ của phôi - Ngày đăng: 30-11-2018
Hiệu quả của kết hợp khâu ctc và progesterone so với progesterone đơn thuần trên đơn thai có cổ tử cung cực ngắn - Ngày đăng: 30-11-2018
Mối tương quan giữa tỉ lệ tạo thành phôi nang chất lượng tốt và nồng độ progesterone ngày tiêm mũi trưởng thành noãn trong chu kỳ IVF/ICSI-GnRH antagonist - Ngày đăng: 28-11-2018
Loại bỏ phân mảnh phôi ngày 2 sẽ cải thiện đáng kể sự phát triển và kết cục lâm sàng của phôi người thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 28-11-2018
Não úng thuỷ trong hội chứng Zika bẩm sinh - Ngày đăng: 28-11-2018
Di chuyển bằng đường hàng không và thai kỳ - Ngày đăng: 27-11-2018
Mối tương quan giữa số lượng tế bào sinh thiết và kết quả thai - Ngày đăng: 27-11-2018
Sốt xuât huyết trong thai kỳ và dị tật thần kinh bẩm sinh - Ngày đăng: 26-11-2018
Xây dựng thuật toán điều trị trên nhóm bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân dựa vào độ phân mảnh DNA tinh trùng - Ngày đăng: 23-11-2018
Lựa chọn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cho những bệnh nhân lớn tuổi với số lượng noãn ít - Ngày đăng: 23-11-2018
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK