Tin tức
on Tuesday 27-11-2018 3:28pm
Danh mục: Tin quốc tế
Thông thường, di chuyển bằng máy bay thường không được khuyến khích tại bất kỳ thời điểm thai kỳ nào nếu có nguy cơ bệnh lý nội khoa và sản khoa, bởi vì chuyến bay có thể làm nặng thêm tình trạng thai kỳ hoặc có khả năng cần phải cấp cứu khẩn. Hầu hết các hãng hàng không thương mại không cho phép di chuyển bằng máy bay trên 36 tuần thai kỳ. Một vài hạn chế xảy ra sớm cho phụ nữ mang thai từ các chuyến bay quốc tế và một số yêu cầu giấy tờ cần xác định tuổi thai. Do đó, phụ nữ mang thai nên xem thời gian bay và được thông báo các trường hợp cấp cứu sản khoa khẩn thường xảy ra ở giai đoạn đầu và cuối thai kỳ trước khi có kế hoạch bay.
Trong điều kiện môi trường có thay đổi áp suất, độ ẩm thấp tại cabin cùng với những thay đổi sinh lý thai kỳ sẽ dẫn đến nhịp tim tăng, huyết áp tăng và giảm đáng kể khả năng thông khí. Nhiều rủi ro liên quan đến ngồi cố định tại chỗ và độ ẩm thấp tại cabin hàng tiếng đồng hồ như phù chi dưới (phù chân) và huyết khối tĩnh mạch. Một số biện pháp có thể phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro như dùng vớ y khoa, thường xuyên di chuyển đôi chân, tránh quần áo bó chặt, thỉnh thoảng đi lại quanh khoang tàu và duy trì đủ nước.
Rối loạn không khí và nguy cơ chấn thương không thể dự đoán trước, do đó phụ nữ mang thai nên được hướng dẫn thắt dây an toàn liên tục khi ngồi. Tránh thức ăn và nước uống có mùi, dự phòng thuốc chống nôn khi cần.
Tiếng ồn, rung động, bức xạ tác động không đáng kể khi bay. The National Council on Radiation Protection and Measurements and the International Commission on Radiological Protection khuyến cáo giới hạn bức xạ tối đa phơi nhiễm 1 người /1 năm là 1000 mSv (100 rem) trong cộng đồng dân số chung và 1 mSv (0.1 rem) trong suốt 40 tuần thai kỳ. Hầu như rủi ro phơi nhiễm bức xạ cho thai không đáng kể. Ngay cả các chuyến bay liên lục địa dài nhất, phơi nhiễm bức xạ không quá 15% giới hạn trên, do đó hiếm khi vượt quá phơi nhiễm bức xạ cho thai. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai cần được thông báo về vấn đề này.
Nhìn chung, di chuyển bằng đường hàng không trong suốt thai kỳ thì hầu như an toàn trong điều kiện không tồn tại nguy cơ bệnh lý thai kỳ.
BS. Huỳnh Hoàng Mi - Bệnh viện Mỹ Đức lược dịch từ ACOG COMMITEE OPINION số 746, đăng online ngày 25 tháng 7 năm 2018
https://www.acog.org/Clinical-Guidance-and-Publications/Committee-Opinions/Committee-on-Obstetric-Practice/Air-Travel-During-Pregnancy
Trong điều kiện môi trường có thay đổi áp suất, độ ẩm thấp tại cabin cùng với những thay đổi sinh lý thai kỳ sẽ dẫn đến nhịp tim tăng, huyết áp tăng và giảm đáng kể khả năng thông khí. Nhiều rủi ro liên quan đến ngồi cố định tại chỗ và độ ẩm thấp tại cabin hàng tiếng đồng hồ như phù chi dưới (phù chân) và huyết khối tĩnh mạch. Một số biện pháp có thể phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro như dùng vớ y khoa, thường xuyên di chuyển đôi chân, tránh quần áo bó chặt, thỉnh thoảng đi lại quanh khoang tàu và duy trì đủ nước.
Rối loạn không khí và nguy cơ chấn thương không thể dự đoán trước, do đó phụ nữ mang thai nên được hướng dẫn thắt dây an toàn liên tục khi ngồi. Tránh thức ăn và nước uống có mùi, dự phòng thuốc chống nôn khi cần.
Tiếng ồn, rung động, bức xạ tác động không đáng kể khi bay. The National Council on Radiation Protection and Measurements and the International Commission on Radiological Protection khuyến cáo giới hạn bức xạ tối đa phơi nhiễm 1 người /1 năm là 1000 mSv (100 rem) trong cộng đồng dân số chung và 1 mSv (0.1 rem) trong suốt 40 tuần thai kỳ. Hầu như rủi ro phơi nhiễm bức xạ cho thai không đáng kể. Ngay cả các chuyến bay liên lục địa dài nhất, phơi nhiễm bức xạ không quá 15% giới hạn trên, do đó hiếm khi vượt quá phơi nhiễm bức xạ cho thai. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai cần được thông báo về vấn đề này.
Nhìn chung, di chuyển bằng đường hàng không trong suốt thai kỳ thì hầu như an toàn trong điều kiện không tồn tại nguy cơ bệnh lý thai kỳ.
BS. Huỳnh Hoàng Mi - Bệnh viện Mỹ Đức lược dịch từ ACOG COMMITEE OPINION số 746, đăng online ngày 25 tháng 7 năm 2018
https://www.acog.org/Clinical-Guidance-and-Publications/Committee-Opinions/Committee-on-Obstetric-Practice/Air-Travel-During-Pregnancy
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa số lượng tế bào sinh thiết và kết quả thai - Ngày đăng: 27-11-2018
Sốt xuât huyết trong thai kỳ và dị tật thần kinh bẩm sinh - Ngày đăng: 26-11-2018
Xây dựng thuật toán điều trị trên nhóm bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân dựa vào độ phân mảnh DNA tinh trùng - Ngày đăng: 23-11-2018
Lựa chọn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cho những bệnh nhân lớn tuổi với số lượng noãn ít - Ngày đăng: 23-11-2018
Kỹ thuật sàng lọc phôi lệch bội giai đoạn tiền làm tổ (PGT-A) có tính hiệu quả - chi phí cao hơn, rút ngắn thời gian điều trị, giảm nguy cơ thất bại khi chuyển phôi và sẩy thai lâm sàng - Ngày đăng: 23-11-2018
Viêm nội mạc tử cung mạn tính: có phải là một yếu tố thất bại trong IVF? - Ngày đăng: 21-11-2018
Chế độ ăn uống và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 21-11-2018
Xác định mối tương quan giữa kích thước tiền nhân và tiềm năng hợp tử 1PN phát triển thành phôi nang - Ngày đăng: 21-11-2018
Nuôi cấy phôi liên tục cho tỉ lệ tạo phôi nang cao hơn nhưng tỉ lệ thai cộng dồn như nhau khi so với nuôi cấy chuyển tiếp: nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn - Ngày đăng: 21-11-2018
Chất lượng tinh trùng có thay đổi theo các mùa trong năm - Ngày đăng: 12-11-2018
Béo phì ở bé gái có liên hệ với tình trạng vô sinh khi trưởng thành - Ngày đăng: 12-11-2018
Tăng cân trong thai kỳ và sinh non - Ngày đăng: 13-11-2018
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK