Tin tức
on Wednesday 21-11-2018 11:30am
Danh mục: Tin quốc tế
Ảnh hưởng của viêm nội mạc tử cung lên sự thành công của IVF
Tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hiện nay đang ở xa mức lý tưởng. Những hiểu biết của chúng ta về quá trình làm tổ của phôi là chưa đầy đủ. Ví dụ như, yếu tố nào hỗ trợ và yếu tố nào cản trở sự thành công trong việc làm tổ của phôi? Viêm nội mạc tử cung mạn tính được xác định là một trong những bệnh lý liên quan đến sự thất bại làm tổ liên tiếp. Một tổng quan có hệ thống gần đây đánh giá tác động của viêm nội mạc tử cung mạn tính lên sự thành công của IVF.
Kết quả phân tích gộp
Kết quả của 5 nghiên cứu (tổng cộng trên 796 bệnh nhân) đánh giá mối liên quan giữa viêm nội mạc tử cung mạn tính với sự thất bại làm tổ liên tiếp (từ hai chu kỳ IVF thất bại trở lên) được đưa vào phân tích gộp này. Trong tất cả các nghiên cứu, nội mạc tử cung thu được khi sinh thiết ở pha nang noãn được đem nhuộm hematoxylin-eosin cho thấy có xuất hiện tế bào plasma hoặc hóa miễn dịch được dùng để chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mạn tính. Các thuốc kháng sinh như: Doxycycline, ciprofloxacin và Metronidazole được dùng để điều trị cho những trường hợp này. So sánh giữa các nhóm được thực hiện với những phát hiện sau:
+ Dữ liệu từ một nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ thai diễn tiến / sinh sống giữa nhóm viêm nội mạc tử cung mạn tính được điều trị kháng sinh với nhóm viêm NMTC mạn tính không điều trị kháng sinh (không tiến hành sinh thiết lại để xem NMTC viêm mạn tính có được điều trị khỏi hay không).
+ Nhóm được điều trị khỏi viêm NMTC mạn tính có kết quả thai diễn tiến / sinh sống và làm tổ cao hơn nhóm được điều trị kháng sinh nhưng không khỏi (xác định bằng kết quả sinh thiết lại), tỉ số chênh của tỉ lệ sinh sống giữa hai nhóm là 6.81 (khoảng tin cậy 95%, 2.08 – 22.24). Không có sự khác biệt về tỉ lệ sẩy thai giữa hai nhóm này.
+ So với những trường hợp không bị viêm nội mạc tử cung mạn tính, nhóm viêm nội mạc tử cung mạn tính được điều trị cho kết quả lâm sàng tương đương. Tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống không khác biệt đáng kể.
Theo kết luận của các tác giả: kết quả của việc điều trị viêm nội mạc tử cung mạn tính cho kết quả lâm sàng sau IVF cao hơn khi so sánh với bệnh nhân không điều trị. Tuy nhiên việc điều trị nên được xác định lại bởi sinh thiết NMTC. Những phát hiện này dựa trên dữ liệu thu thập được từ các nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu nhưng không dựa trên các thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng. Vì vậy các tác giả kêu gọi cần có thêm các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trong tương lai.
Hình ảnh. Mô bệnh học của viêm nội mạc tử cung với hematoxylin và eosin
có tế bào plasma và hình ảnh bạch cầu đa nhân trung tính rải rác.
Quan điểm
Thành công của việc làm tổ phụ thuộc vào chất lượng phôi, số tế bào của phôi, sự tiếp nhận của NMTC và sự đồng bộ, tương hợp giữa phôi và nội mạc tử cung. Hiện nay trong các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thì IVF mang lại cơ hội có thai cao nhất. Tuy nhiên tỷ lệ thành công của IVF không phải là tuyệt đối. Việc thất bại của 1 chu kỳ có thể gây căng thẳng cho người bệnh, nhưng nếu thất bại liên tiếp sẽ làm cho cả bệnh nhân và bác sĩ điều trị nản lòng. Việc chẩn đoán và điều trị 1 bệnh cảnh có thể điều trị được như viêm NMTC có thể biến thất bại thành thành công.
Viêm NMTC mạn tính là 1 tình trạng bệnh lý gây ra bởi nhiễm trùng. Hầu hết các nhiễm trùng là tại chỗ và diễn tiến tăng dần, nhưng cũng có thể lan truyền theo mạch máu hoặc hệ thống bạch huyết. Lòng TC không vô trùng, hệ vi sinh vật của nó cũng giống như đường sinh dục dưới nhưng nó ít bị chi phối bởi các lợi khuẩn lactobacilli (30% so với 90% ở âm đạo, CTC).
Các vi khuẩn (như E.coli, Enterococcus, Mycoplasma, Klebsiella, Pseudomonas, Gard…) và nấm có thể gây viêm mạn tính NMTC. Và chúng có thể phát triển mạnh hơn khi có sự suy giảm lợi khuẩn lactobacilli.
Viêm NMTC mạn tính có thể làm biến đổi quá trình viêm gây ảnh hưởng đến sự làm tổ của phôi, có thể gây biến đổi bất thường mô học của tế bào NMTC và có thể dẫn đến sự thay đổi trong biểu hiện gen. Những trường hợp này độ dày nội mạc tử cung thường giảm, dẫn đến độ dày niêm mạc dưới mức tối ưu cho việc chuyển phôi.
Có vẻ như dựa trên nghiên cứu này và các tổng quan hệ thống khác, các thuốc kháng sinh đường uống như Doxycyclin, Clindamycin, Ciprofloxacin, Metronidazole… có hiệu quả trong điều trị viêm NMTC. Sinh thiết NMTC để xác định hiệu quả của điều trị nên được thực hiện bởi kết cục của thai kỳ chỉ cải thiện trong những trường hợp điều trị khỏi.
Bản thân sinh thiết cũng có ảnh hưởng tích cực đến việc làm tổ của phôi nếu được thực hiện trong chu kì trước khi tiến hành chuyển phôi. Do đó nếu sinh thiết là cần thiết thì nó cần được lên kế hoạch ngay trước khi chuyển phôi để hưởng được lợi ích tiềm tàng của nó ngay cả khi mô học là âm tính.
Tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hiện nay đang ở xa mức lý tưởng. Những hiểu biết của chúng ta về quá trình làm tổ của phôi là chưa đầy đủ. Ví dụ như, yếu tố nào hỗ trợ và yếu tố nào cản trở sự thành công trong việc làm tổ của phôi? Viêm nội mạc tử cung mạn tính được xác định là một trong những bệnh lý liên quan đến sự thất bại làm tổ liên tiếp. Một tổng quan có hệ thống gần đây đánh giá tác động của viêm nội mạc tử cung mạn tính lên sự thành công của IVF.
Kết quả phân tích gộp
Kết quả của 5 nghiên cứu (tổng cộng trên 796 bệnh nhân) đánh giá mối liên quan giữa viêm nội mạc tử cung mạn tính với sự thất bại làm tổ liên tiếp (từ hai chu kỳ IVF thất bại trở lên) được đưa vào phân tích gộp này. Trong tất cả các nghiên cứu, nội mạc tử cung thu được khi sinh thiết ở pha nang noãn được đem nhuộm hematoxylin-eosin cho thấy có xuất hiện tế bào plasma hoặc hóa miễn dịch được dùng để chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mạn tính. Các thuốc kháng sinh như: Doxycycline, ciprofloxacin và Metronidazole được dùng để điều trị cho những trường hợp này. So sánh giữa các nhóm được thực hiện với những phát hiện sau:
+ Dữ liệu từ một nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ thai diễn tiến / sinh sống giữa nhóm viêm nội mạc tử cung mạn tính được điều trị kháng sinh với nhóm viêm NMTC mạn tính không điều trị kháng sinh (không tiến hành sinh thiết lại để xem NMTC viêm mạn tính có được điều trị khỏi hay không).
+ Nhóm được điều trị khỏi viêm NMTC mạn tính có kết quả thai diễn tiến / sinh sống và làm tổ cao hơn nhóm được điều trị kháng sinh nhưng không khỏi (xác định bằng kết quả sinh thiết lại), tỉ số chênh của tỉ lệ sinh sống giữa hai nhóm là 6.81 (khoảng tin cậy 95%, 2.08 – 22.24). Không có sự khác biệt về tỉ lệ sẩy thai giữa hai nhóm này.
+ So với những trường hợp không bị viêm nội mạc tử cung mạn tính, nhóm viêm nội mạc tử cung mạn tính được điều trị cho kết quả lâm sàng tương đương. Tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống không khác biệt đáng kể.
Theo kết luận của các tác giả: kết quả của việc điều trị viêm nội mạc tử cung mạn tính cho kết quả lâm sàng sau IVF cao hơn khi so sánh với bệnh nhân không điều trị. Tuy nhiên việc điều trị nên được xác định lại bởi sinh thiết NMTC. Những phát hiện này dựa trên dữ liệu thu thập được từ các nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu nhưng không dựa trên các thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng. Vì vậy các tác giả kêu gọi cần có thêm các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trong tương lai.
Hình ảnh. Mô bệnh học của viêm nội mạc tử cung với hematoxylin và eosin
có tế bào plasma và hình ảnh bạch cầu đa nhân trung tính rải rác.
Quan điểm
Thành công của việc làm tổ phụ thuộc vào chất lượng phôi, số tế bào của phôi, sự tiếp nhận của NMTC và sự đồng bộ, tương hợp giữa phôi và nội mạc tử cung. Hiện nay trong các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thì IVF mang lại cơ hội có thai cao nhất. Tuy nhiên tỷ lệ thành công của IVF không phải là tuyệt đối. Việc thất bại của 1 chu kỳ có thể gây căng thẳng cho người bệnh, nhưng nếu thất bại liên tiếp sẽ làm cho cả bệnh nhân và bác sĩ điều trị nản lòng. Việc chẩn đoán và điều trị 1 bệnh cảnh có thể điều trị được như viêm NMTC có thể biến thất bại thành thành công.
Viêm NMTC mạn tính là 1 tình trạng bệnh lý gây ra bởi nhiễm trùng. Hầu hết các nhiễm trùng là tại chỗ và diễn tiến tăng dần, nhưng cũng có thể lan truyền theo mạch máu hoặc hệ thống bạch huyết. Lòng TC không vô trùng, hệ vi sinh vật của nó cũng giống như đường sinh dục dưới nhưng nó ít bị chi phối bởi các lợi khuẩn lactobacilli (30% so với 90% ở âm đạo, CTC).
Các vi khuẩn (như E.coli, Enterococcus, Mycoplasma, Klebsiella, Pseudomonas, Gard…) và nấm có thể gây viêm mạn tính NMTC. Và chúng có thể phát triển mạnh hơn khi có sự suy giảm lợi khuẩn lactobacilli.
Viêm NMTC mạn tính có thể làm biến đổi quá trình viêm gây ảnh hưởng đến sự làm tổ của phôi, có thể gây biến đổi bất thường mô học của tế bào NMTC và có thể dẫn đến sự thay đổi trong biểu hiện gen. Những trường hợp này độ dày nội mạc tử cung thường giảm, dẫn đến độ dày niêm mạc dưới mức tối ưu cho việc chuyển phôi.
Có vẻ như dựa trên nghiên cứu này và các tổng quan hệ thống khác, các thuốc kháng sinh đường uống như Doxycyclin, Clindamycin, Ciprofloxacin, Metronidazole… có hiệu quả trong điều trị viêm NMTC. Sinh thiết NMTC để xác định hiệu quả của điều trị nên được thực hiện bởi kết cục của thai kỳ chỉ cải thiện trong những trường hợp điều trị khỏi.
Bản thân sinh thiết cũng có ảnh hưởng tích cực đến việc làm tổ của phôi nếu được thực hiện trong chu kì trước khi tiến hành chuyển phôi. Do đó nếu sinh thiết là cần thiết thì nó cần được lên kế hoạch ngay trước khi chuyển phôi để hưởng được lợi ích tiềm tàng của nó ngay cả khi mô học là âm tính.
BS Nguyễn Thị Dung - IVF Bình Dương, Bệnh viện Phụ Sản Nhi Bình Dương
Nguồn: Vitagliano A, Saccardi C, Noventa M, Di Spiezio Sardo A, Saccone G, Cicinelli E, et al. Effects of chronic endometritis therapy on in vitro fertilization outcome in women with repeated implantation failure: a systematic review and meta-analysis. Fertility and sterility. 2018;110(1):103-12 e1. Epub 2018/06/18.Các tin khác cùng chuyên mục:
Chế độ ăn uống và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 21-11-2018
Xác định mối tương quan giữa kích thước tiền nhân và tiềm năng hợp tử 1PN phát triển thành phôi nang - Ngày đăng: 21-11-2018
Nuôi cấy phôi liên tục cho tỉ lệ tạo phôi nang cao hơn nhưng tỉ lệ thai cộng dồn như nhau khi so với nuôi cấy chuyển tiếp: nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn - Ngày đăng: 21-11-2018
Chất lượng tinh trùng có thay đổi theo các mùa trong năm - Ngày đăng: 12-11-2018
Béo phì ở bé gái có liên hệ với tình trạng vô sinh khi trưởng thành - Ngày đăng: 12-11-2018
Tăng cân trong thai kỳ và sinh non - Ngày đăng: 13-11-2018
Thời gian kiêng xuất tinh ngắn: chiến lược tiềm năng trong cải thiện chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 12-11-2018
Hội chứng nang trống (Empty follicle syndrome –EFS) trong thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 12-11-2018
Mẹ thừa cân, béo phì ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển của phôi - Ngày đăng: 06-11-2018
Ảnh hưởng của sự phát triển phôi chậm và tăng progesterone sớm - Ngày đăng: 05-11-2018
Hướng dẫn thực hành lâm sàng của ACOG về thai lưu sớm (Cập nhật phiên bản tháng 5/2015) - Ngày đăng: 02-11-2018
Thủy tinh hóa tinh trùng không sử dụng chất bảo quản đông lạnh - Ngày đăng: 01-11-2018
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK