Tin tức
on Monday 03-12-2018 7:46am
Danh mục: Tin quốc tế
Nồng độ nội tiết cao trong cơ thể sau kích thích buồng trứng là một trong những yếu tố bất lợi khi mang thai trong một chu kì IVF, do nó làm thay đổi nội mạc tử cung và can thiệp vào quá trình làm tổ của phôi. Vì vậy trong các chu kì IVF, một số trường hợp phôi được trữ lại và chuyển vào chu kì tiếp theo sau khi đã tạo môi trường sinh lý phù hợp cho sự làm tổ của phôi.
Nghiên cứu này thực hiện trên 1508 bệnh nhân bị hội chứng buồng trứng đa nang, so sánh các biến chứng thai kì giữa chuyển phôi trữ và chuyển phôi tươi khi bệnh nhân mang đơn thai hoặc song thai.
Các BN được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Trong 762 ca chuyển phôi tươi có 212 trường hợp sinh 1 con và 108 trường hợp sinh đôi, 746 ca chuyển phôi trữ có 250 trường hợp sinh 1 con và 117 sinh đôi. Tổng cộng có 462 bệnh nhân sinh 1 con và 225 bệnh nhân sinh đôi được phân tích.
Kết quả nghiên cứu như sau:
1. Biến chứng thai kì của nhóm sinh 1 con
Không có sự khác biệt về tỷ lệ nguy cơ đái tháo đường thai kì, tiền sản giật, tuổi thai trung bình khi sinh, nguy cơ sinh non giữa nhóm chuyển phôi tươi và nhóm chuyển phôi trữ. Trẻ sinh ra từ nhóm chuyển phôi trữ có tỷ lệ con to cao hơn nhóm chuyển phôi tươi (25,2% so với 17,5%, P=0,044). Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về các nguy cơ ghi nhận được về sinh non, thai nhỏ so với tuổi thai và nguy cơ nhập viện của trẻ sơ sinh trên 3 ngày.
Khi phân tích theo phương pháp điều trị thực tế mà bệnh nhân nhận được thì sự khác biệt về nguy cơ con to của nhóm phôi trữ và phôi tươi là 26,9% so với 14,9%, P=0,002. Nguy cơ con to giữa 2 nhóm phôi trữ và phôi tươi lần lượt là 20,8% và 11,9%, P=0,011.
2. Biến chứng thai kì của nhóm sinh đôi
Tỷ lệ tiền sản giật có dấu hiệu cao hơn ở nhóm phôi trữ so với nhóm phôi tươi (12,0% so với 2,8%, P=0,009). Không có sự khác biệt về mặt thống kê giữa 2 nhóm về các nguy cơ sinh non, con to, thai nhỏ so với tuổi thai và nguy cơ nhập viện của trẻ sơ sinh trên 3 ngày. Tuy nhiên, có xu hướng giảm tỷ lệ thai nhỏ so với tuổi thai ở nhóm chuyển phôi trữ so với nhóm chuyển phôi tươi (24,1% so với 31,5%, P=0,083).
Kết luận
Đối với phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang, chuyển phôi trữ sẽ có nguy cơ con to cao hơn ở nhóm đơn thai và nguy cơ tiền sản giật khi mang song thai cao hơn so với chuyển phôi tươi.
Nguyễn Thị Minh Anh – Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình
Nguồn: Obstetric complications after frozen versus fresh embryo transfer in women with polycystic ovary syndrome results from a randomized trial. Fertility and Steritily/ 10.1016/j.fertnstert.2017.10.020
Nghiên cứu này thực hiện trên 1508 bệnh nhân bị hội chứng buồng trứng đa nang, so sánh các biến chứng thai kì giữa chuyển phôi trữ và chuyển phôi tươi khi bệnh nhân mang đơn thai hoặc song thai.
Các BN được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Trong 762 ca chuyển phôi tươi có 212 trường hợp sinh 1 con và 108 trường hợp sinh đôi, 746 ca chuyển phôi trữ có 250 trường hợp sinh 1 con và 117 sinh đôi. Tổng cộng có 462 bệnh nhân sinh 1 con và 225 bệnh nhân sinh đôi được phân tích.
Kết quả nghiên cứu như sau:
1. Biến chứng thai kì của nhóm sinh 1 con
Không có sự khác biệt về tỷ lệ nguy cơ đái tháo đường thai kì, tiền sản giật, tuổi thai trung bình khi sinh, nguy cơ sinh non giữa nhóm chuyển phôi tươi và nhóm chuyển phôi trữ. Trẻ sinh ra từ nhóm chuyển phôi trữ có tỷ lệ con to cao hơn nhóm chuyển phôi tươi (25,2% so với 17,5%, P=0,044). Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về các nguy cơ ghi nhận được về sinh non, thai nhỏ so với tuổi thai và nguy cơ nhập viện của trẻ sơ sinh trên 3 ngày.
Khi phân tích theo phương pháp điều trị thực tế mà bệnh nhân nhận được thì sự khác biệt về nguy cơ con to của nhóm phôi trữ và phôi tươi là 26,9% so với 14,9%, P=0,002. Nguy cơ con to giữa 2 nhóm phôi trữ và phôi tươi lần lượt là 20,8% và 11,9%, P=0,011.
2. Biến chứng thai kì của nhóm sinh đôi
Tỷ lệ tiền sản giật có dấu hiệu cao hơn ở nhóm phôi trữ so với nhóm phôi tươi (12,0% so với 2,8%, P=0,009). Không có sự khác biệt về mặt thống kê giữa 2 nhóm về các nguy cơ sinh non, con to, thai nhỏ so với tuổi thai và nguy cơ nhập viện của trẻ sơ sinh trên 3 ngày. Tuy nhiên, có xu hướng giảm tỷ lệ thai nhỏ so với tuổi thai ở nhóm chuyển phôi trữ so với nhóm chuyển phôi tươi (24,1% so với 31,5%, P=0,083).
Kết luận
Đối với phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang, chuyển phôi trữ sẽ có nguy cơ con to cao hơn ở nhóm đơn thai và nguy cơ tiền sản giật khi mang song thai cao hơn so với chuyển phôi tươi.
Nguyễn Thị Minh Anh – Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình
Nguồn: Obstetric complications after frozen versus fresh embryo transfer in women with polycystic ovary syndrome results from a randomized trial. Fertility and Steritily/ 10.1016/j.fertnstert.2017.10.020
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỷ lệ trẻ sinh sống giảm khi chuyển những phôi khảm cấu trúc nhiễm sắc thể sau thực hiện kỹ thuật phân tích di truyền tiền làm tổ (PGT-A) - Ngày đăng: 30-11-2018
Sinh thiết phôi nang và các thao tác phòng thí nghiệm không làm ảnh hưởng đến đặc điểm phôi sau rã đông cũng như tỷ lệ làm tổ của phôi - Ngày đăng: 30-11-2018
Hiệu quả của kết hợp khâu ctc và progesterone so với progesterone đơn thuần trên đơn thai có cổ tử cung cực ngắn - Ngày đăng: 30-11-2018
Mối tương quan giữa tỉ lệ tạo thành phôi nang chất lượng tốt và nồng độ progesterone ngày tiêm mũi trưởng thành noãn trong chu kỳ IVF/ICSI-GnRH antagonist - Ngày đăng: 28-11-2018
Loại bỏ phân mảnh phôi ngày 2 sẽ cải thiện đáng kể sự phát triển và kết cục lâm sàng của phôi người thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 28-11-2018
Não úng thuỷ trong hội chứng Zika bẩm sinh - Ngày đăng: 28-11-2018
Di chuyển bằng đường hàng không và thai kỳ - Ngày đăng: 27-11-2018
Mối tương quan giữa số lượng tế bào sinh thiết và kết quả thai - Ngày đăng: 27-11-2018
Sốt xuât huyết trong thai kỳ và dị tật thần kinh bẩm sinh - Ngày đăng: 26-11-2018
Xây dựng thuật toán điều trị trên nhóm bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân dựa vào độ phân mảnh DNA tinh trùng - Ngày đăng: 23-11-2018
Lựa chọn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cho những bệnh nhân lớn tuổi với số lượng noãn ít - Ngày đăng: 23-11-2018
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK