Tin tức
on Friday 30-11-2018 3:00pm
Danh mục: Tin quốc tế
Progesterone đặt âm đạo và khâu cổ tử cung (CTC) là hai biện pháp có thể dự phòng sinh non trên đơn thai có cổ tử cung ngắn. Một số tác giả đặt ra câu hỏi là liệu can thiệp kết hợp progesterone đặt âm đạo và khâu CTC có giúp làm giảm tỷ lệ sinh non tốt hơn, có kéo dài được thai kỳ và cải thiện kết cục sơ sinh hơn so với một phương pháp đơn thuần hay không.
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện tại trường đại học Illinois-Chicago trên các thai kỳ đơn thai có chỉ định đặt progesterone ngả âm đạo vì CTC ngắn dưới 20mm. Đối tượng nghiên cứu là những trường hợp có CTC diễn tiến ngắn dần đến <10mm và sinh tại Illinos từ năm 2013-2016. Chỉ định khâu CTC dựa trên quyết định cá nhân của từng bác sĩ khi thăm khám lâm sàng và kết hợp siêu âm đo kênh CTC. Nghiên cứu thu nhận các dữ liệu về đặc điểm nhân chủng học, diễn tiến tình trạng CTC, tiền căn sản khoa, nội khoa, có khâu CTC hay không. So sánh kết cục chu sinh giữa 2 nhóm can thiệp: chỉ sử dụng progesterone và sử dụng cả hai phương pháp progesterone và khâu CTC.
Có 310 sản phụ có CTC ngắn được chỉ định đặt progesterone ngả âm đạo. Trong đó, có 75 sản phụ có CTC diễn tiến ngắn dần dưới 10mm thoả tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu. Trong các trường hợp có CTC ngắn dần dưới 10mm, 36 trường hợp (48%) được can thiệp khâu CTC và tiếp tục đặt progesterone ngả âm đạo, và 39 trường hợp (52%) tiếp tục đặt progesterone âm đạo mà không can thiệp gì thêm. Các đặc điểm cơ bản, chiều dài kênh CTC trung bình (5.06 vs 5.52 mm), tuổi thai trung bình tại thời điểm chẩn đoán CTC ngắn (21.5 vs 21.3 tuần) tương tự nhau ở hai nhóm có khâu CTC và không khâu CTC. Tuổi thai trung bình tại thời điểm sinh ở những trường hợp có khâu CTC lớn hơn rất nhiều so với nhóm không khâu CTC (34 tuần 3 ngày so với 27 tuần 2 ngày; P<0.001). Tỷ lệ sinh non tự nhiên tại các thời điểm < 37, 35, 32, 28 và 24 tuần thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm có khâu CTC, lần lượt như sau: 44.1% so với 84.2%, 38.2% so với 81.6%, 23.5% so với 78.9%, 14.7% so với 63.2% và 11.8% so với 39.5%. Tuổi thai kéo dài trung bình thêm được 14 tuần khi kết hợp đặt progesterone âm đạo và khâu CTC so với nhóm chỉ đặt progesterone âm đạo. Tỷ lệ nhập khoa hồi sức tích cực sơ sinh và hội chứng nguy kịch hô hấp cấp trên trẻ sơ sinh cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm có khâu CTC so với nhóm không khâu, số liệu lần lượt là 13 (36.1%) so với 23 (65.7%) (RR= 0.55, 95% CI 0.34-0.9; P=0.18) và 8 (22.2%) so với 17 (43.6%) (RR= 0.59; 95% CI 0.29-0.9; P=0.27).
Như vậy, kết hợp khâu CTC và progesterone đặt âm đạo trên những trường hợp có CTC cực ngắn làm giảm tỷ lệ sinh non, kéo dài thai kỳ và giảm bệnh suất và tử suất sơ sinh.
BS Châu Ngọc Minh – Nhóm sinh non BV Mỹ Đức
Nguồn: Enakpene CA, DiGiovanni L, Jones TN, et al. Cervical cerclage for singleton pregnant patients on vaginal progesterone with progressive cervical shortening. Am J Obstet Gynecol 2018;219:397.e1-10.
Nguồn hình: https://www.pregmed.org/wp-content/uploads/2015/12/Cervical-Cerclage-Procedure.jpg
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện tại trường đại học Illinois-Chicago trên các thai kỳ đơn thai có chỉ định đặt progesterone ngả âm đạo vì CTC ngắn dưới 20mm. Đối tượng nghiên cứu là những trường hợp có CTC diễn tiến ngắn dần đến <10mm và sinh tại Illinos từ năm 2013-2016. Chỉ định khâu CTC dựa trên quyết định cá nhân của từng bác sĩ khi thăm khám lâm sàng và kết hợp siêu âm đo kênh CTC. Nghiên cứu thu nhận các dữ liệu về đặc điểm nhân chủng học, diễn tiến tình trạng CTC, tiền căn sản khoa, nội khoa, có khâu CTC hay không. So sánh kết cục chu sinh giữa 2 nhóm can thiệp: chỉ sử dụng progesterone và sử dụng cả hai phương pháp progesterone và khâu CTC.
Có 310 sản phụ có CTC ngắn được chỉ định đặt progesterone ngả âm đạo. Trong đó, có 75 sản phụ có CTC diễn tiến ngắn dần dưới 10mm thoả tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu. Trong các trường hợp có CTC ngắn dần dưới 10mm, 36 trường hợp (48%) được can thiệp khâu CTC và tiếp tục đặt progesterone ngả âm đạo, và 39 trường hợp (52%) tiếp tục đặt progesterone âm đạo mà không can thiệp gì thêm. Các đặc điểm cơ bản, chiều dài kênh CTC trung bình (5.06 vs 5.52 mm), tuổi thai trung bình tại thời điểm chẩn đoán CTC ngắn (21.5 vs 21.3 tuần) tương tự nhau ở hai nhóm có khâu CTC và không khâu CTC. Tuổi thai trung bình tại thời điểm sinh ở những trường hợp có khâu CTC lớn hơn rất nhiều so với nhóm không khâu CTC (34 tuần 3 ngày so với 27 tuần 2 ngày; P<0.001). Tỷ lệ sinh non tự nhiên tại các thời điểm < 37, 35, 32, 28 và 24 tuần thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm có khâu CTC, lần lượt như sau: 44.1% so với 84.2%, 38.2% so với 81.6%, 23.5% so với 78.9%, 14.7% so với 63.2% và 11.8% so với 39.5%. Tuổi thai kéo dài trung bình thêm được 14 tuần khi kết hợp đặt progesterone âm đạo và khâu CTC so với nhóm chỉ đặt progesterone âm đạo. Tỷ lệ nhập khoa hồi sức tích cực sơ sinh và hội chứng nguy kịch hô hấp cấp trên trẻ sơ sinh cũng thấp hơn đáng kể ở nhóm có khâu CTC so với nhóm không khâu, số liệu lần lượt là 13 (36.1%) so với 23 (65.7%) (RR= 0.55, 95% CI 0.34-0.9; P=0.18) và 8 (22.2%) so với 17 (43.6%) (RR= 0.59; 95% CI 0.29-0.9; P=0.27).
Như vậy, kết hợp khâu CTC và progesterone đặt âm đạo trên những trường hợp có CTC cực ngắn làm giảm tỷ lệ sinh non, kéo dài thai kỳ và giảm bệnh suất và tử suất sơ sinh.
BS Châu Ngọc Minh – Nhóm sinh non BV Mỹ Đức
Nguồn: Enakpene CA, DiGiovanni L, Jones TN, et al. Cervical cerclage for singleton pregnant patients on vaginal progesterone with progressive cervical shortening. Am J Obstet Gynecol 2018;219:397.e1-10.
Nguồn hình: https://www.pregmed.org/wp-content/uploads/2015/12/Cervical-Cerclage-Procedure.jpg
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa tỉ lệ tạo thành phôi nang chất lượng tốt và nồng độ progesterone ngày tiêm mũi trưởng thành noãn trong chu kỳ IVF/ICSI-GnRH antagonist - Ngày đăng: 28-11-2018
Loại bỏ phân mảnh phôi ngày 2 sẽ cải thiện đáng kể sự phát triển và kết cục lâm sàng của phôi người thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 28-11-2018
Não úng thuỷ trong hội chứng Zika bẩm sinh - Ngày đăng: 28-11-2018
Di chuyển bằng đường hàng không và thai kỳ - Ngày đăng: 27-11-2018
Mối tương quan giữa số lượng tế bào sinh thiết và kết quả thai - Ngày đăng: 27-11-2018
Sốt xuât huyết trong thai kỳ và dị tật thần kinh bẩm sinh - Ngày đăng: 26-11-2018
Xây dựng thuật toán điều trị trên nhóm bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân dựa vào độ phân mảnh DNA tinh trùng - Ngày đăng: 23-11-2018
Lựa chọn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cho những bệnh nhân lớn tuổi với số lượng noãn ít - Ngày đăng: 23-11-2018
Kỹ thuật sàng lọc phôi lệch bội giai đoạn tiền làm tổ (PGT-A) có tính hiệu quả - chi phí cao hơn, rút ngắn thời gian điều trị, giảm nguy cơ thất bại khi chuyển phôi và sẩy thai lâm sàng - Ngày đăng: 23-11-2018
Viêm nội mạc tử cung mạn tính: có phải là một yếu tố thất bại trong IVF? - Ngày đăng: 21-11-2018
Chế độ ăn uống và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 21-11-2018
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK