Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 02-07-2025 10:12pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

Ths. Trương Quốc Thịnh – IVF Tâm Anh

Chuyển phôi (Embryo transfer - ET) là bước cuối cùng và quan trọng nhất trong quy trình thụ tinh trong ống nghiệm. Do đó, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào các kỹ thuật để cải thiện tỷ lệ thành công của ET. Các dữ liệu được đồng thuận rộng rãi và được đưa vào hướng dẫn chuyển phôi của Ủy ban Thực hành của Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ, bao gồm việc sử dụng siêu âm ngã bụng và catheter mềm, loại bỏ chất nhầy cổ tử cung, đặt đầu catheter vào vùng trên hoặc giữa của khoang tử cung, và có thể đi lại ngay lập tức sau khi chuyển phôi để cải thiện tỷ lệ mang thai. Tuy nhiên, sự khác biệt trong đặc điểm bệnh nhân, thực hành lâm sàng, kỹ năng của kỹ thuật viên và công nghệ giữa các phòng khám khiến việc tiêu chuẩn hóa các kỹ thuật và thu thập dữ liệu nhất quán trở nên khó khăn. Một trong những vấn đề đó chính là việc xác định thời lượng lý tưởng để thực hiện quy trình ET, hoặc chính xác hơn là thời gian mà phôi không còn nằm trong môi trường nuôi cấy phôi lý tưởng và trước khi phôi được chuyển thành công vào khoang tử cung, vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Từ nguồn dữ liệu hạn chế cho thấy rằng thời gian ET dài hơn có thể liên quan đến tỷ lệ mang thai thấp hơn, trong khi một quy trình ET nhanh chóng và suôn sẻ có thể giảm những rủi ro và cải thiện kết quả. Điều này có thể do việc phơi nhiễm phôi lâu hơn với các điều kiện không tối ưu, căng thẳng cơ học trong quá trình chuyển phôi, hoặc co thắt tử cung gia tăng. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tác động của thời gian ET đến kết quả mang thai, cung cấp những hiểu biết quý giá để cải thiện thực hành lâm sàng và kết quả cho bệnh nhân.

Nghiên cứu được thực hiện trên 2267 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh nguyên bội cho 2267 bệnh nhân độc lập. Thời lượng chuyển phôi (tính bằng giây) tính từ lúc một chuyên viên phôi học chuyển catheter có chứa phôi cho bác sĩ đến khi bác sĩ hoàn tất bơm phôi vào buồng tử cung, với sự xác nhận bằng hình ảnh siêu âm qua ngã bụng. Số lượng ca chuyển phôi theo từng mốc thời gian như sau: (1) 4–27 giây (n = 593), (2) 28–38 giây (n = 577), (3) 39–54 giây (n = 535), và (4) 55–1028 giây (n = 562). Tỷ lệ sinh sống tổng thể là 59,8% (1356/2267). Thời gian ET trung bình dẫn đến sinh sống là 53,9 giây so với 59,9 giây trong các chu kỳ không dẫn đến sinh sống (p = 0,071). So sánh giữa các mốc thời gian, tỷ lệ sinh sống giảm đáng kể cho các cặp bệnh nhân có thời gian ET dài nhất (4) so với thời gian nhanh nhất (1), sau khi điều chỉnh cho các biến gây nhiễu (aOR, 0,76; 95% KTC 0,58–0,99; p = 0,046). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong tỷ lệ sinh sống ở các phần thời gian ET (2) hoặc (3), khi so sánh với nhóm (1). Tuy nhiên, có một mối quan hệ liều–phản ứng đáng kể giữa thời gian ET và tỷ lệ sinh sống trong các phân tích điều chỉnh xu hướng tuyến tính (p = 0.014). Tỷ lệ mang thai sinh hóa, mang thai lâm sàng và sẩy thai tổng thể lần lượt là 80,3%, 70,5% và 24,5%. Nghiên cứu không ghi nhận sự khác biệt nào trong tỷ lệ mang thai sinh hóa, mang thai lâm sàng, hoặc sẩy thai giữa các nhóm trong các mô hình đã điều chỉnh hoàn toàn. Các phôi bị trả lại hoặc sót và được nạp lại là những biến số bổ sung có thể đã góp phần làm thời gian ET kéo dài. Có 12 phôi được trả lại và 32 phôi cần được nạp, hầu hết các ca đều nằm trong phần thời gian dài nhất (4). Mặc dù kích thước mẫu là khá nhỏ, tỷ lệ sinh sống của các phôi bị trả lại hoặc nạp lại thấp hơn, nhưng không khác biệt thống kê so với những phôi chuyển suôn sẻ (54,6% so với 59,8%, p = 0,671 đối với phôi bị trả lại; 43,8% so với 60,0%, p = 0,062 đối với phôi được nạp lại).

Việc không có mối liên hệ đáng kể giữa tỷ lệ thai sinh hóa, thai lâm sàng, hoặc sẩy thai với thời gian ET kéo dài có thể cho thấy rằng trong khi thời gian chuyển phôi có thể ảnh hưởng đến các kết quả thai lâu dài như tỷ lệ sinh sống, nhưng có thể không có sự khác biệt có thể phát hiện được ở các giai đoạn đầu của thai kỳ. Lý do có thể là vì khi thời gian chuyển phôi kéo dài có thể làm phơi bày phôi dưới các điều kiện không tối ưu, như dao động nhiệt độ và pH, co thắt tử cung, hoặc áp lực cơ học. Điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng sống lâu dài và khả năng làm tổ ban đầu của phôi. Nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng có thể có một "ngưỡng" thời gian nhất định mà sự phơi bày phôi bên ngoài môi trường tử cung và môi trường nuôi cấy phải được đáp ứng trước khi có tác động tiêu cực đến các kết quả mang thai, vì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong tỷ lệ sinh sống ở các nhóm thời gian (2) hoặc (3) khi so sánh với (1) (thời gian ngắn nhất). Trong các phân tích phân tầng tập trung vào xếp loại hình thái phôi SART tổng thể, nghiên cứu đã thấy những kết quả tương tự như kết quả chính khi chỉ giới hạn ở các phôi có chất lượng tốt, nhưng không ở các phôi có chất lượng trung bình hoặc kém. Điều này gợi ý rằng chất lượng phôi có thể có tác động lớn hơn đến kết quả mang thai cuối cùng khi so với tổng thời gian chuyển phôi.

Tóm lại, nghiên cứu này đã phát hiện một mối liên hệ đáng kể giữa thời gian chuyển phôi kéo dài và tỷ lệ thai sinh sống giảm, gợi ý rằng các yếu tố nhạy cảm với thời gian trong quá trình chuyển phôi có thể ảnh hưởng đến khả năng làm tổ thành công và sự phát triển tiếp theo của phôi thai. Nếu thời gian chuyển phôi kéo dài làm giảm khả năng sinh sống, việc hiểu lý do và cách giảm thiểu sự chậm trễ trong quá trình chuyển phôi là điều cần được nghiên cứu thêm để mang lại cho bệnh nhân cơ hội thành công cao hơn, điều này đặc biệt có giá trị khi xem xét những thách thức về cảm xúc, thể chất và tài chính trong điều trị hiếm muộn.

Nguồn: Vessa B, Sachdev D, Roberts L, Scarpetti K, Whitehead C, Costantini M, Bergh P, Werner M, Bollig K. Every second counts: the assoKTCation of embryo transfer duration with live birth following 2267 single, euploid, frozen embryo transfer. J Assist Reprod Genet. 2025 Jun 5. doi: 10.1007/s10815-025-03520-7. Epub ahead of print. PMID: 40473958.

 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...

Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK