ThS. Đoàn Thị Thùy Dương - IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Mặc dù các kỹ thuật và chiến lược điều trị trong hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) đã có nhiều tiến bộ, nhưng tình trạng vô sinh vẫn phổ biến và gây lo ngại, đặc biệt là hiện tượng thất bại làm tổ nhiều lần (recurrent implantation failure - RIF). RIF hiện chưa có định nghĩa thống nhất, song thường được hiểu là không có thai sau từ hai đến ba lần chuyển phôi chất lượng tốt. Hiện tượng này ảnh hưởng đến khoảng 10% các chu kỳ ART và được cho là do chất lượng phôi kém, nội mạc tử cung không tiếp nhận tốt, hoặc cả hai trường hợp trên. Quá trình làm tổ của phôi chịu ảnh hưởng của hormone buồng trứng và đòi hỏi sự tương tác hiệu quả giữa phôi và nội mạc tử cung. Trong quá trình kích thích buồng trứng, nồng độ hormone cao bất thường có thể làm giảm khả năng tiếp nhận của nội mạc, dẫn đến giảm tỷ lệ làm tổ trong các chu kỳ chuyển phôi tươi (fresh embryo transfer - ET). Nhằm cải thiện môi trường sinh lý và tăng tỷ lệ thành công, nhiều nghiên cứu đã đề xuất chuyển phôi trữ lạnh (frozen embryo transfer - FET) thay vì chuyển phôi tươi. Tuy nhiên, dữ liệu về hiệu quả của FET ở bệnh nhân RIF còn hạn chế, do đó nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh kết quả giữa chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ ở nhóm phụ nữ này, với kỳ vọng xác định được hướng tiếp cận điều trị hiệu quả hơn.
Phương pháp
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 2 năm 2020 đến tháng 2 năm 2023 ở 430 phụ nữ vô sinh trong độ tuổi từ 18 đến 45 có tiền sử ít nhất hai lần thất bại làm tổ. Tiêu chí loại trừ bao gồm kích thích buồng trứng bằng phác đồ chủ vận, chuẩn bị nội mạc tử cung bằng chu kỳ tự nhiên hoặc được kích thích, có dị tật tử cung và vô sinh do yếu tố nam giới nghiêm trọng. Kết quả được so sánh giữa chu kỳ chuyển phôi tươi và chu kỳ chuyển phôi trữ.
Kết quả
Tổng cộng 498 chu kỳ chuyển phôi từ 430 phụ nữ được phân tích, trong đó 418 chu kỳ FET và 80 chu kỳ ET. Các đặc điểm cơ bản như BMI, loại và thời gian vô sinh giữa hai nhóm tương đương nhau (P > 0,05). Tuy nhiên, phụ nữ trong nhóm FET trẻ hơn đáng kể so với nhóm ET (32,79 so với 36,04, P = 0,000).
Về kết quả thai kỳ, nhóm FET có tỷ lệ thai hóa sinh hóa (29,7% so với 13,8%, P = 0.002) và thai lâm sàng (20,6% so với 10%, P = 0,027) cao hơn đáng kể so với nhóm ET. Tỷ lệ sinh sống cũng cao hơn ở nhóm FET nhưng không có ý nghĩa thống kê (8,7% vs 4,9%, P = 0,127).
Phân tích hồi quy logistic cho thấy ở nhóm FET làm tăng khả năng có thai sinh hóa lên 2,33 lần so với nhóm ET. Sau khi điều chỉnh theo tuổi, AMH và độ dày nội mạc tử cung, FET vẫn cho thấy khả năng mang thai hóa sinh và thai lâm sàng cao hơn đáng kể so với nhóm ET.
Biện luận
Nghiên cứu này nhằm so sánh hiệu quả của ART giữa ET và FET ở nhữn người phụ nữ RIF. Kết quả cho thấy tỷ lệ thai sinh hóa và thai lâm sàng ở nhóm FET cao hơn đáng kể so với nhóm ET, phù hợp với các nghiên cứu trước đó cho rằng FET có thể là chiến lược có lợi cho bệnh nhân RIF. Kết quả này có thể được giải thích bởi việc trì hoãn chuyển phôi giúp nội mạc tử cung hồi phục trong một chu kỳ tự nhiên, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình làm tổ so với chu kỳ tươi với nồng độ hormone cao bất thường. Ngoài ra, nhóm FET có thể mang tính chọn lọc cao hơn, do thường chỉ những phôi chất lượng tốt mới được trữ lạnh, và những phụ nữ này cũng thường có tiền sử điều trị dài hơn. Hơn nữa, sự khác biệt đáng kể về tuổi và nồng độ AMH – hai yếu tố liên quan mật thiết đến khả năng sinh sản – cũng có thể góp phần ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, vì nhóm FET có cả hai yếu tố thuận lợi này. Mặc dù kết quả này cho thấy tiềm năng của FET trong điều trị RIF, nhưng thiết kế hồi cứu và nguy cơ lựa chọn sai lệch hạn chế khả năng khẳng định mối tương quan giữa FET và kết quả lâm sàng. Do đó, cần thêm các nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn hơn để xác nhận hiệu quả của FET trong nhóm bệnh nhân này.
Kết luận
Nghiên cứu cho thấy chu kỳ FET có thể liên quan đến việc cải thiện tỷ lệ mang thai ở những phụ nữ mắc RIF.
Nguồn: Dashti, S., Arabian, S., & Davar, R. (2025). Fresh Versus Frozen Embryo Transfer in Women with Repeated Implantation Failure. Advanced Biomedical Research, 14(1), 36.











Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...