Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 13-06-2025 2:31am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

Nguyễn Như Quỳnh, Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFMD Gia Định

            I. Sự ra đời của phương pháp nuôi cấy phôi trong âm đạo (IVC)
            Nuôi cấy trong âm đạo (intravaginal culture – IVC) được đề cập đầu tiên vào năm 1988 bởi tác giả Ranoux [6]. Đây là phương pháp cho phép nuôi cấy giao tử/phôi trong môi trường sinh lý tự nhiên của âm đạo. Sau đó, thiết kế của hệ thống nuôi cấy này đã có nhiều cải tiến quan trọng, tối ưu hiệu quả và an toàn, dẫn đến sự ra đời của dụng cụ INVOcell – được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cấp phép sử dụng trong kĩ thuật IVC [5].

Hình 1. Dụng cụ nuôi cấy INVOcell

            II. Cơ sở lý thuyết và nguyên lý của kĩ thuật IVC
Kĩ thuật IVC sử dụng thiết bị chuyên dụng để đặt giao tử/phôi vào bên trong âm đạo, nơi điều kiện tự nhiên như nhiệt độ, độ ẩm, và khí CO₂ được duy trì một cách sinh lý. Kĩ thuật này được chỉ định cho nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (< 38 tuổi), chỉ số khối cơ thể <35 kg/m2, buồng trứng hoạt động tốt. Trong kĩ thuật này, buồng trứng thường được kích thích nhẹ (£ 225 IU/ngày) [5].  Noãn sau chọc hút được cấy tinh trùng với mật độ 30.000 – 50.000 tinh trùng/1 mL môi trường nuôi cấy - tương tự như phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển (conventional IVF – cIVF) - hoặc trực tiếp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn, sau đó chuyển vào dụng cụ INVOcell có chứa môi trường nuôi cấy đã được cân bằng. INVOcell là thiết bị được thiết kế chuyên biệt, bao gồm buồng nuôi cấy có thể tích nhỏ (4 × 2,5 cm), cho phép đặt giao tử/phôi cùng môi trường nuôi cấy đã được cân bằng trước. Thiết bị này có khả năng giữ môi trường ổn định và tránh tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết âm đạo nhờ cấu trúc đóng kín (Hình 1 & 2). Sau thời gian nuôi cấy tối ưu được khuyến cáo là 72 giờ (3 ngày), sau đó dụng cụ được lấy ra ngoài cơ thể, rửa sạch với nước muối sinh lý ấm nhằm loại bỏ dịch tiết âm đạo. Toàn bộ môi trường nuôi cấy được thu nhận bằng catheter và chuyển vào đĩa nuôi cấy đã chuẩn bị sẵn để xác định số lượng và chất lượng phôi [1, 7].


 

Hình 2. Cấu trúc chi tiết dụng cụ nuôi cấy INVOcell

Những bệnh nhân quá mẫn với sillicon y tế, polystyrene, viêm âm đạo nặng hoặc có tiền sử hội chứng sốc nhiễm độc không phù hợp sử dụng dụng cụ này. Các loại môi trường nuôi cấy phôi đã thương mại hoá đều có thể được dùng để nuôi cấy giao tử/phôi. Tuy nhiên, môi trường nuôi cấy phải bổ sung chất kháng sinh nhằm hạn chế nguy cơ nhiễm khuẩn và phenol red để theo dõi độ pH trong môi trường âm đạo [5, 7].

            III. Hiệu quả lâm sàng của kĩ thuật nuôi cấy sử dụng dụng cụ INVOcell trong một số nghiên cứu
            Các kết quả cho thấy đây là một kỹ thuật có nhiều tiềm năng. Tỉ lệ trẻ sinh sống giữa IVC và IVF lần lượt là 55% và 60% (p>0,05) (Doody và cs., 2016)[3]. Một nghiên cứu khác của tác giả Yang Mohsin (2022) so sánh kết quả phôi giữa nuôi cấy IVC bằng dụng cụ INVOcell và cIVF thông qua các đánh giá lâm sàng về tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ hình thành phôi nang và tỉ lệ phôi chất lượng tốt. Kết quả cho thấy tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ phôi chất lượng tốt không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai phương pháp (p >  0,05), riêng tỉ lệ hình thành phôi nang ở nhóm nuôi cấy sử dụng INVOcell cao hơn so với nhóm c-IVF (p = 0,016) [8]. Nhóm tác giả Freitas Aguiar (2023) cũng phân tích và so sánh sự hình thành và chất lượng phôi ngày 3 và ngày 5 giữa 2 phương pháp c-IVF và IVC sử dụng INVOcell. Cụ thể, tỉ lệ noãn phân chia thành phôi ngày 3 giữa IVC và c-IVF lần lượt là 75% và 53% (p = 0,2), tỉ lệ noãn phát triển thành phôi ngày 5 giữa IVC và c-IVF lần lượt là 79% và 83% (p = 1), tỉ lệ hình thành phôi nang giữa IVC và c-IVF lần lượt là 46,7% và 40% (p = 1). Như vậy, phần lớn công bố cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về các thông số đánh giá giữa hai phương pháp IVC và c-IVF [2]. Tuy nhiên trong kĩ thuật này, việc kiểm tra thụ tinh không được thực hiện như thường quy, dẫn đến trường hợp có thể chuyển các phôi vốn có mang các bất thường liên quan đến thụ tinh [4].

            IV. Kết luận
            Phương pháp nuôi cấy IVC-INVOcell là một phương pháp nhiều tiềm năng, tỉ lệ thai tương đương IVF cổ điển, đồng thời tạo điều kiện để bệnh nhân trực tiếp tham gia vào quá trình điều trị. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để chứng minh hiệu quả lâm sàng cũng như các khía cạnh khác liên quan đến sinh lí và tâm lí bệnh nhân.

            V. Tài liệu tham khảo
            1. Coelho F, Aguiar LF, Cunha GS, Lucena E. Introduction of the method of intravaginal culture (IVC), through the device InVOCell routine laboratory RHA in Brazil. JBRA assisted reproduction. 2022 Aug 8;17(6):340-3.
            2. de Freitas Aguiar L, da Cunha GD, Cordido KA, Coelho FA, Carvalho TM. Randomized prospective study comparing conventional In Vitro Fertilization technique to Intravaginal Culture with the INVOCELL™ device for 3 and 5 days. JBRA assisted reproduction. 2023 Jul;27(3):360.
            3. Doody KJ, Broome EJ, Doody KM. Comparing blastocyst quality and live birth rates of intravaginal culture using INVOcell™ to traditional in vitro incubation in a randomized open-label prospective controlled trial. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 2016 Apr;33:495-500.
            4. García-Ferreyra J, Hilario R, Luna D, Villegas L, Romero R, Zavala P, Dueñas-Chacón J. In vivo culture system using the INVOcell device shows similar pregnancy and implantation rates to those obtained from in vivo culture system in ICSI procedures. Clinical Medicine Insights: Reproductive Health. 2015 Jan;9:CMRH-S25494.
5. Jellerette-Nolan T, Cooper AR, Doody KJ, Nichols JE, Park JK, Poe-Zeigler RL, Khair AF, Stong LM, Paulson RJ, Daftary GS. Real-world experience with intravaginal culture using INVOCELL: an alternative model for infertility treatment. F&S Reports. 2021 Mar 1;2(1):9-15.
            6. Ranoux C, Aubriot FX, Dubuisson JB, Cardone V, Foulot H, Poirot C, Chevallier O. A new in vitro fertilization technique: intravaginal culture. Fertility and sterility. 1988 Apr 1;49(4):654-7.
            7. The INVOcell Intravaginal Culture System
            8. Yang Mohsin WS, Abdullah Chue NS, Abdul Hamid F, Abu MA, Othman S, Mat Jin N, Woon SY, Abdul Karim AK, Ahmad MF. Comparison of Treatment Outcomes among Sibling Oocytes Using Different Culture Systems—Conventional IVF versus INVOcell Device—And Evaluation of INVOcell User Satisfaction: The INVOcIVF Study. International Journal of Environmental Research and Public Health. 2022 Sep 29;19(19):12391.
 
 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK