ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hân
Chuyên viên phôi học
Đơn vị Hỗ trợ sinh sản Olea Fertility, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Giới thiệu
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (HTSS) đã mở ra hy vọng mới cho các gia đình mong con, đặc biệt là những phụ nữ suy giảm khả năng sinh sản do tuổi tác. Trước đây, trữ noãn chủ yếu được chỉ định cho bệnh nhân ung thư hoặc sau phẫu thuật phụ khoa. Tuy nhiên, hiện nay, phương pháp này ngày càng được ứng dụng rộng rãi với mục tiêu chủ động trì hoãn việc sinh con. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tỷ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống từ noãn trữ tương đương với noãn tươi.
Để tư vấn hiệu quả trong thực hành lâm sàng, việc nắm rõ tiềm năng sinh con từ các noãn trưởng thành (Metaphase II – MII) đã được trữ lạnh là rất cần thiết. Điều đáng lưu ý là tỷ lệ trẻ sinh sống từ các chu kỳ rã noãn không chỉ phụ thuộc vào chất lượng noãn mà còn bị chi phối bởi số con mà bệnh nhân mong muốn và việc họ có sử dụng toàn bộ phôi được tạo ra từ chu kỳ đó hay không. Do đó, tập trung vào số lượng phôi nguyên bội (euploid) giúp giảm thiểu các vấn đề này. Một nghiên cứu quy mô lớn trước đó cho thấy ba lần chuyển phôi đơn nguyên bội liên tiếp có thể giúp đạt xác suất sinh sống là 93%.
Nghiên cứu hiện tại nhằm cung cấp dữ liệu thực tế về số lượng noãn MII cần thiết để tạo được ít nhất ba phôi nang nguyên bội, từ đó tối ưu hóa cơ hội sinh con thành công. Mục tiêu chính là xác định số noãn MII trung bình cần thiết, phân theo độ tuổi và chỉ định chu kỳ, với giả định rằng con số này sẽ tăng theo tuổi. Mục tiêu khác là xây dựng một công cụ tư vấn lâm sàng, dựa trên xác suất có con theo số lượng noãn MII được trữ và rã đông, phân loại theo từng nhóm tuổi.
Vật liệu và phương pháp
Bố trí thí nghiệm
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản Shady Grove, phân tích tổng cộng 1041 chu kỳ rã noãn từ bệnh nhân trữ noãn tự thân bằng phương pháp thủy tinh hóa trong giai đoạn từ năm 2011 đến tháng 10/2023.
Quy trình IVF
Noãn được chọc hút sau 36 giờ kích thích trưởng thành bằng gonadotropin-releasing hormone angonist (GnRH-angonist) hoặc human chorionic gonadotropin (hCG), sau đó đông lạnh bằng thủy tinh hóa. Sau rã đông, noãn MII được tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection – ICSI) và nuôi đến giai đoạn phôi nang. Phôi được phân loại theo hệ thống Gardner-Schoolcraft cải tiến bởi các chuyên viên phôi học theo quy trình chuẩn hóa.
Các phôi loại BB trở lên (ngày 5–7) được sử dụng trong các chu kỳ có thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing – PGT). Nghiên cứu phân tích xác suất thu được ≥3 phôi nang nguyên bội theo số lượng noãn MII trữ/ rã và phân nhóm tuổi: <35, 35 – 37, 38 – 40, 41 – 42, và >42 (theo SART). Đồng thời, ghi nhận số noãn MII cần thiết để đạt được 1, 2 hoặc 3 ca sinh sống.
Kết quả
Từ hơn 8000 chu kỳ đông noãn bằng thủy tinh hóa thực hiện trong giai đoạn 2011–2023, có tổng cộng 1041 chu kỳ rã noãn được đưa vào phân tích, trong đó 488 chu kỳ có thực hiện PGT-A. Tuổi trung bình tại thời điểm rã noãn thường cách thời điểm trữ noãn khoảng 2–3 năm, ngoại trừ nhóm tuổi lớn nhất quay lại sau khoảng 1 năm.
Số lượng noãn MII có sẵn thay đổi theo nhóm tuổi, với trung bình 13 noãn ở nhóm trẻ nhất và chỉ còn 4 noãn ở nhóm ≥43 tuổi. Nhóm <35 tuổi có tỷ lệ phôi nang euploid cao nhất trong số các phôi được xét nghiệm PGT-A (62,2%), và tỷ lệ này giảm dần theo tuổi, chỉ còn 35% ở nhóm ≥43 tuổi. Phân tích chi tiết được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học theo nhóm tuổi tại thời điểm trữ noãn
Thông số |
<35 tuổi |
35–37 tuổi |
38–40 tuổi |
41–42 tuổi |
≥43 tuổi |
Số chu kỳ rã noãn (N) |
310 |
334 |
283 |
77 |
37 |
Tuổi tại thời điểm đông (Mean ± SD) |
31.3 ± 2.5 |
36.0 ± 0.8 |
38.9 ± 0.7 |
41.4 ± 0.5 |
43.7 ± 1.3 |
Tuổi tại thời điểm rã |
33.9 ± 4.0 |
39.6 ± 2.6 |
41.9 ± 2.4 |
43.5 ± 2.1 |
44.8 ± 2.1 |
BMI (kg/m², Mean ± SD) |
25.5 ± 5.4 |
25.3 ± 4.7 |
25.9 ± 4.7 |
26.9 ± 5.3 |
26.7 ± 6.7 |
Số noãn MII có sẵn (trung vị [IQR]) |
13 [6–19] |
14 [8–21] |
13 [6–21] |
10 [5–22] |
4 [2–14] |
Tỷ lệ noãn 2PN |
72.0 ± 23.1% |
71.0 ± 19.4% |
71.0 ± 20.9% |
68.8 ± 22.4% |
74.4 ± 22.8% |
Sử dụng PGT – Số ca (%) |
103 (33.2%) |
183 (54.8%) |
153 (54.1%) |
36 (46.8%) |
13 (35.1%) |
Tỷ lệ phôi euploid |
62.2 ± 27.1% |
54.8 ± 31.4% |
42.4 ± 30.1% |
30.3 ± 30.5% |
35.0 ± 34.6% |
*Ghi chú: AMH = antimullerian hormone; BMI = chỉ số khối cơ thể; FSH = hormone kích thích nang trứng; IQR = khoảng tứ phân vị; 2PN = hai tiền nhân.
Số lượng noãn MII trữ lạnh tối thiểu để đạt xác suất có từ ba phôi nang euploid trở lên được trình bày theo độ tuổi trong Bảng 2. Kết quả cho thấy số lượng noãn cần thiết tăng dần theo tuổi. Cụ thể, phụ nữ từ 38 – 40 tuổi cần trữ khoảng 28 noãn MII – gần gấp đôi so với nhóm <35 tuổi (khoảng 15 noãn). Ở độ tuổi trên 42, con số này vượt quá 50 noãn. Ngoài ra, việc trữ lạnh 15 noãn MII mang lại 71,0% cơ hội tạo được ít nhất 3 phôi nang euploid ở nhóm <35 tuổi, nhưng tỷ lệ này giảm mạnh còn 5,8% ở bệnh nhân trên 42 tuổi.
Bảng 2. Số lượng tối thiểu noãn MII trữ lạnh cần thiết để đạt xác suất nhất định có ít nhất ba phôi nang euploid sau khi rã đông và thụ tinh
Xác suất đạt ít nhất 3 phôi nang euploid |
Số noãn MII cần theo độ tuổi tại thời điểm trữ lạnh |
|||
|
<35 tuổi |
35 – 37 tuổi |
38 – 40 tuổi |
41 – 42 tuổi |
≥10% |
6 |
7 |
10 |
11 |
≥20% |
7 |
10 |
13 |
15 |
≥30% |
9 |
12 |
16 |
18 |
≥40% |
10 |
14 |
19 |
22 |
≥50% |
12 |
16 |
21 |
25 |
≥60% |
13 |
18 |
25 |
29 |
≥70% |
15 |
21 |
28 |
34 |
≥80% |
18 |
24 |
33 |
39 |
≥90% |
22 |
30 |
41 |
49 |
≥99% |
33 |
46 |
>50 |
>50 |
Dựa trên dữ liệu trẻ sinh sống, số ca sinh kỳ vọng trên mỗi noãn MII rã đông giảm theo độ tuổi tại thời điểm trữ lạnh, với 0,13 ở nhóm <35 tuổi và 0,04 ở nhóm >40 tuổi. Ngoài ra, phụ nữ <35 tuổi cần trữ ít nhất 10 noãn MII để có 75% cơ hội sinh một bé, trong khi con số này tăng gấp đôi ở nhóm ≥38 tuổi. Đối với những bệnh nhân mong muốn sinh nhiều hơn một bé, nhóm <35 tuổi, họ cần trữ từ 20 đến 30 noãn MII để đạt 75% khả năng sinh 2 hoặc 3 bé, còn nhóm ≥38 tuổi cần hơn 40 noãn (Hình 1).
Thảo luận
Nghiên cứu này cung cấp dữ liệu đã được kiểm chứng về số lượng noãn ở giai đoạn MII cần thiết trong từng nhóm tuổi để đạt được tối thiểu ba phôi nang euploid. Kết quả cho thấy, khi độ tuổi tại thời điểm trữ đông tăng lên, số lượng noãn MII cần thiết để đạt được một xác suất nhất định trong việc thu được ba phôi nang euploid cũng tăng lên đáng kể.
Phân tích sâu hơn cho thấy số lượng noãn MII cần thiết để tạo ra ba phôi nang euploid trở lên thường cao hơn so với số lượng cần để đạt được một ca có trẻ sinh sống. Sự khác biệt này chủ yếu xuất phát từ bản chất khác nhau giữa các tiêu chí đánh giá: mặc dù việc thu được ba phôi nang euploid trở lên gần như đảm bảo khả năng sinh sống, nhiều bệnh nhân vẫn có thể mang thai và sinh con thành công với ít phôi hơn và/hoặc sử dụng phôi chưa qua tầm soát di truyền.
Đối với nhóm bệnh nhân trên 40 tuổi tại thời điểm trữ noãn, đặc biệt là những người trên 42 tuổi, cần được tư vấn đầy đủ và cẩn trọng về khả năng phải cần đến số lượng lớn noãn MII trong điều trị IVF. Việc đạt được số lượng noãn tối ưu ở nhóm tuổi này có thể đòi hỏi nhiều chu kỳ trữ đông, thậm chí trong một số trường hợp có thể không khả thi. Do đó, các lựa chọn thay thế như trữ đông phôi hoặc cân nhắc từ bỏ bảo tồn khả năng sinh sản để chuyển sang các phương án xây dựng gia đình khác (ví dụ: nhận con nuôi, sử dụng noãn hiến tặng hoặc phôi hiến tặng) cần được xem xét nghiêm túc như một phần của “kế hoạch dự phòng”.
Kết luận
Phân tích hiện tại cho thấy, những bệnh nhân dưới 35 tuổi tại thời điểm trữ cần trung bình 15 noãn trưởng thành để thu được ít nhất ba phôi nang euploid. Ở nhóm bệnh nhân từ 38 tuổi trở lên, số lượng noãn MII cần thiết để đạt được mục tiêu tương tự tăng gấp đôi, và ở nhóm từ 40 tuổi trở lên, con số này tăng gấp ba.
Dựa trên những kết quả này, nên khuyến khích phụ nữ thực hiện trữ đông noãn trước 38 tuổi. Đồng thời, cần tư vấn rõ ràng đối với phụ nữ từ 38 tuổi trở lên, việc đạt được xác suất sinh sống cao từ noãn trữ đông có thể đòi hỏi nhiều chu kỳ trữ đông.
Tài liệu tham khảo
Namath, A., K. Flannagan, P. Pirtea, J. P. Toner, and K. Devine. 2025. The number of autologous, vitrified mature oocytes needed to obtain three euploid blastocysts increases with age. Fertil Steril doi: 10.1016/j.fertnstert.2025.04.023












New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...