Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 13-06-2025 2:24am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hân, ThS. Lâm Thị Mỹ Hậu
Đơn vị Hỗ trợ sinh sản Olea Fertility, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
 
Công nghệ nuôi cấy phôi theo dõi liên tục và trí tuệ nhân tạo đã và đang được trở nên phổ biến hơn. Nhiều mô hình tiên lượng khả năng tạo phôi nang, tiên lượng tỷ lệ làm tổ của phôi và thậm chí là tỷ lệ trẻ sinh sống cũng ra đời dựa trên các thông số về động học phôi. Tuy nhiên, những tiến bộ này chưa chứng minh được hiệu quả vượt trội để tiên lượng kết cục của điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Phải chăng những dữ liệu chúng ta đang thu thập là chưa đủ hoặc đã thu thập đủ nhưng chưa sử dụng đúng cách?
Ngoài các yếu tố về thời gian phân bào đã được chứng minh một cách rõ ràng có ảnh hưởng đến tiên lượng kết cục của phôi, một số đặc điểm trong quá trình phát triển của phôi dâu chưa được mô tả chi tiết. Trong giới hạn bài viết này, các đặc điểm nén, hình thành khoang phôi hay các bất thường tế bào chất được tập trung làm rõ.

Sự hình thành không bào ở giai đoạn phôi dâu
Không bào trong phôi là cấu trúc hình cầu, có màng bao bọc và chứa dịch lỏng từ khoảng không gian quanh màng noãn (perivitelline space). Chúng có thể xuất hiện ở mọi giai đoạn phát triển của phôi, từ noãn bào đến phôi nang. Không bào có thể hình thành do bất thường tế bào chất trong quá trình tống xuất thể cực thứ nhất, tác động của kỹ thuật ICSI, hoặc sự hợp nhất của các túi nhỏ được tiết ra từ lưới nội chất trơn và bộ máy Golgi (Ebner và cs., 2005). Về mặt lý thuyết, sự xuất hiện của không bào ở giai đoạn phôi dâu có thể phản ánh quá trình apoptosis hoặc hoại tử (Mayer và cs., 2019). Nghiên cứu của Zhang và cộng sự (2019) cho thấy số lượng và kích thước không bào tỷ lệ nghịch với chất lượng phôi nang.
Mặc dù không bào ở phôi dâu làm giảm khả năng phát triển thành phôi nang và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng phôi, nhưng không gây tác động lâu dài đến sự phát triển hay sức khỏe trẻ sau sinh (Chen và cs., 2022). Bên cạnh đó, tỷ lệ làm tổ, kết quả thai kỳ và tỷ lệ trẻ sinh sống từ những phôi có không bào tương tự những phôi không có không bào. Vì vậy, đối với trường hợp không còn phôi tối ưu, những phôi chứa không bào tham gia vào quá trình nén phôi có thể được cân nhắc trong lựa chọn phôi chuyển.

Sự nén không hoàn toàn của phôi dâu
Trong quá trình phát triển phôi tiền làm tổ, các phôi bào tương tác với nhau thông qua các cầu nối chặt chẽ dẫn đến việc không thể phân biệt được màng tế bào, phôi trở thành một khối nén chặt (ESHRE, 2011). Hiện tượng đẩy một hoặc một vài phôi bào ra khỏi khối nén này, nhưng vẫn nằm trong màng trong suốt, đã được mô tả từ rất sớm (Tao và cs., 2002). Giả thuyết được đưa ra là do cơ chế tự sửa sai của phôi giai đoạn tiền làm tổ: các phôi bào lệch bội bị tống xuất ra ngoài, không tham gia vào quá trình phát triển phôi thai tiếp theo (Zhan và cs., 2016; Coticchio và cs., 2019). Ở góc nhìn khác, sự tống xuất tế bào này sẽ làm biến dạng trật tự không gian của các phôi bào, dẫn đến việc tương tác tín hiệu giữa chúng không còn được đảm bảo (White và cs.,2018).
Việc sử dụng những phôi này cho hiệu quả điều trị kém và đã được chứng minh bằng sự giảm tỷ lệ tạo phôi nang và giảm chất lượng phôi so với những phôi nén hoàn toàn (Ebner và cs., 2009; Ivec và cs., 2011). Trong các nghiên cứu có sử dụng hệ thống timelapse, Lagalla và cs (2017, 2019) đã chỉ ra mối tương quan giữa hiện tượng phôi nén không hoàn toàn với các bất thường về động học. Mặc dù vậy, các phôi nang tạo thành vẫn có tỷ lệ nguyên bội có thể chấp nhận được (Hur và cs,. 2023). Gần đây nhất, Radhika và cs (2023) mô tả các phôi có sự nén không hoàn toàn có một số mốc phân bào chậm hơn và tỷ lệ có tim thai khi dùng những phôi này thấp hơn các phôi nén hoàn toàn.
Cho đến nay, cơ chế hình thành và mức độ tác động đến các kết quả điều trị của sự nén không hoàn toàn ở phôi dâu vẫn chưa được làm rõ. Do đó, có thể cân nhắc sử dụng thông tin về thời gian tống xuất tế bào và diện tích bề mặt phôi bị chiếm giữ để hỗ trợ trong việc đánh giá và lựa chọn phôi chuyển.
 

Hình minh họa: Phôi nén hoàn toàn và Phôi nén không hoàn toàn (có sự tống xuất tế bào - chấm màu xanh)

Sự hình thành khoang phôi sớm
Trong các mô hình đánh giá chất lượng phôi nang ở người, thời điểm bắt đầu tạo khoang phôi và thời điểm phôi nang đạt độ nở hoàn toàn là hai yếu tố quan trọng và chính xác (Campbell và cs,. 2013; Goodman và cs,. 2016). Trong đó, thời điểm bắt đầu tạo khoang ít hơn 96,2 giờ sau thụ tinh và thời điểm phôi nở hoàn toàn ít hơn 122,9 sau thụ tinh cho tỷ lệ phôi lệch bội thấp hơn các phôi vượt mốc này. Bên cạnh, các phôi có thời điểm bắt đầu tạo khoang dưới 100 giờ sau thụ tinh cũng cho tỷ lệ làm tổ cao hơn có ý nghĩa thống kê. Nhóm nghiên cứu của Hsieh và cs (2018) đã gợi ý về tỷ lệ tạo phôi nang có chất lượng tốt và tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn đáng kể ở nhóm có sự tạo khoang phôi sớm vào ngày 4 (96-100 giờ sau thụ tinh). Các nghiên cứu về sau cũng có kết quả tương tự (Marti và cs,. 2023; Lammers và cs,. 2024).
Trong giới hạn hiểu biết của tác giả, chỉ có một nghiên cứu duy nhất mô tả sự nở rộng hoàn chỉnh của phôi nang vào ngày 4 (độ nở rộng từ độ 3 trở lên theo đồng thuận chung) (Ozguz và cs,.2021). Trong đó, nghiên cứu này chỉ ra việc sử dụng các phôi nang vào ngày 4 làm tăng tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ thai lâm sàng so với sử dụng phôi ngày 5 và ngày 6, bất kể độ nở rộng. Đáng chú ý, phôi nang được đánh giá hình thái 4AA vào ngày 4 có tỷ lệ làm tổ lên đến 71.2% so với 64.3% ở nhóm phôi 4AA vào 5. Cho đến nay, chưa có nghiên cứu mới về việc sử dụng phôi nang nở hoàn toàn vào ngày 4. Các bằng chứng về khả năng sử dụng cũng như tính an toàn khi phôi phát triển sớm cũng còn chưa đủ thuyết phục.

Tóm lại
Cùng với sự phát triển của công nghệ, càng ngày càng có nhiều dữ liệu về sự phát triển phôi trong giai đoạn tiền làm tổ. Dựa trên những dữ liệu này, các chuyên viên phôi học có thể đưa ra các dự đoán cũng như cân nhắc các yếu tố khi sử dụng phôi chuyển. Một số đặc điểm như sự hình thành không bào, sự nén phôi không toàn hay tốc độ nở của khoang phôi có thể gợi ý về tiềm năng phát triển thành phôi nang. Trong đó, sự hình thành không bào và sự nén không hoàn toàn có thể làm giảm khả năng phát triển phôi tuy nhiên tác động chưa rõ ràng và vẫn có thể cân nhắc sử dụng. Các phôi phát triển nhanh vào giai đoạn ngày 4 có thể cho kết quả lâm sàng tốt hơn nhưng chưa có bằng chứng thuyết phục, do đó cần có những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá tính an toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Chen L, Zhang S, Gu Y, Peng Y, Huang Z, Gong F, et al. Vacuolization in embryos on days 3 and 4 of in vitro development: Association with stimulation protocols, embryo development, chromosomal status, pregnancy and neonatal outcomes. Front Endocrinol (Lausanne). 2022;13:985741.

  2. Christine Hur, Vaani Nanavaty, Meng Yao, Nina Desai, The presence of partial compaction patterns is associated with lower rates of blastocyst formation, sub-optimal morphokinetic parameters and poorer morphologic grade, Reprod Biol Endocrinol, 2023 Jan 28;21(1):12. doi: 10.1186/s12958-023-01059-9.

  3. Ebner T, Moser M, Sommergruber M, Gaiswinkler U, Shebl O, Jesacher K, et al. Occurrence and developmental consequences of vacuoles throughout preimplantation development. Fertil Steril. 2005;83(6):1635-40.

  4. Mayer RB, Shebl O, Oppelt P, Reiter E, Altmann R, Enengl S, et al. Good-quality blastocysts derived from vacuolized morulas show reduced viability. Fertil Steril. 2018;109(6):1025-9.

  5. Monica Parriego, Lluc Coll, Beatriz Carrasco, Sandra Garcia, Montserrat Boada, Nikolaos P. Polyzos, Francesca Vidal, Anna Veiga, Reproductive BioMedicine Online, Volume 48, Issue 4, April 2024, 103729, https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2023.103729

 

 
 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK