Tin tức
on Friday 03-01-2025 2:13am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đoàn Thị Thùy Dương - IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Bên cạnh những lợi ích của các phương pháp hỗ trợ sinh sản thì hiện nay vẫn có trường hợp noãn không thụ tinh hoặc thụ tinh kém sau các chu kì thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) mà không rõ nguyên nhân. Trong đó, sự thất bại trong quá trình hoạt hóa noãn (Oocyte activation deficiency - OAD) được xem là nguyên nhân chính. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng phospholipase C zeta (PLCζ) có liên quan đến quá trình hoạt hóa noãn tự nhiên, thúc đẩy sự giải phóng nồng độ Ca2+ trong tế bào chất ở noãn, là một trong những sự kiện sớm nhất của quá trình thụ tinh. Do đó, sự thiếu hụt hoặc hoạt động bất thường của PLCζ là một trong những nguyên nhân chính gây ra OAD. Để giải quyết vấn đề trên, kỹ thuật hoạt hóa noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation - AOA) được nghiên cứu và thực hiện với nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp điện, cơ học và hóa học (sử dụng Ca2+2+ ionophore, inomycin,…). Hiện nay, ICSI-AOA vẫn chưa được phổ biến rộng rãi trong lâm sàng vì lo ngại về tác dụng lâu dài của mô hình dao động calci trong tế bào chất và thiếu những xét nghiệm để định lượng PLCζ để đánh giá tiềm năng hoạt hóa noãn của tinh trùng. Do đó, bài nghiên cứu này đánh giá tác động của hoạt hóa noãn nhân tạo (AOA) lên tỉ lệ thụ tinh và các kết quả lâm sàng ở những bệnh nhân thất bại thụ tinh hoặc thụ tinh kém không rõ nguyên nhân sau các chu kì IVF/ICSI.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2021 trên 39 cặp vợ chồng có tiền sử thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém (<25%) trong chu kỳ IVF/ICSI trước đó và có nồng độ PLCζ thấp và/ hoặc tỷ lệ tinh trùng biểu hiện PLCζ thấp được đánh giá bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Các trường hợp trên được chỉ định thực hiện ICSI-AOA với Ca2+ ionophore. Kết quả đánh giá bao gồm tỷ lệ thụ tinh, số phôi chuyển, số phôi được trữ lạnh, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Kết quả
Khi so sánh tỷ lệ thụ tinh của các chu kì IVF/ ICSI trước đó với ICSI-AOA thì nhận thấy không có sự khác biệt về số lượng noãn thu được trên mỗi bệnh nhân (8,6 so với 10; p = 0,12) và số lượng noãn được thụ tinh (7,1 so với 8,0; p = 0,26). Tuy nhiên, ICSI-AOA có tỷ lệ thụ tinh cao hơn đáng kể (P<0,0001).
Bên cạnh đó, ICSI-AOA có số lượng bệnh nhân chuyển phôi tươi (94,6% so với 33,3%, P<0,0001), xét nghiệm thai dương tính (29,7% so với 2,6%; P = 0,0012), tỷ lệ mang thai lâm sàng (CPR) và tỷ lệ sống (LBR) (18,9% so với 2,6%; P = 0,02) cao hơn đáng kể so với các chu kì IVF/ICSI trước đó.
Khi đánh giá kết quả trữ lạnh phôi thì ở các chu kì ICSI-AOA có phôi được được trữ lạnh cao hơn đáng kể so với các chu kì IVF/ICSI trước đó (43,6% so với 0%, P<0,0001). Khi đánh giá kết quả chuyển phôi trữ thì nhận thấy rằng ở nhóm ICSI-AOA cho kết quả CPR (41,0% so với 2,6%; P < 0,0001) và LBR (38,5% so với 2,6%; P < 0,0001) cao hơn đáng kể so với nhóm IVF/ICSI.
Ở nhóm có tỷ lệ tinh trùng biểu hiện PLC zeta thấp nhận thấy rằng khi thực hiện ICSI-AOA cho tỷ lệ thụ tinh cao hơn đáng kể so với các chu kì IVF/ICSI (66,3% so với 4,6%; P < 0,0001).
Bàn luận
Sự thiếu hụt PLCζ là một trong những nguyên nhân gây thất bại thụ tinh hoàn toàn hay thụ tinh kém sau ICSI. Tuy nhiên hiện tại vẫn chưa có phương pháp điều trị trực tiếp nào cho các trường hợp thiếu hụt PLCζ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng PLCζ tái tổ hợp có thể hứa hẹn để khắc phục tìn trạng trên nhưng cho đến nay vẫn chưa được ứng dụng trong lâm sàng. Bên cạnh đó, ICSI-AOA sử dụng Ca2+ ionophore được báo cáo là có khả năng khắc phục tình trạng OAD và giúp cải thiện tỷ lệ thụ tinh, CPR và LBR. Kết quả nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng về việc cải thiện kết quả lâm sàng cho các bệnh nhân thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém sau ICSI.
Kết luận
AOA là một công cụ mạnh mẽ có thể chuyển đổi kết quả lâm sàng cho các cặp đôi gặp phải những bất thường về thụ tinh không rõ nguyên nhân. Các xét nghiệm PLCζ có tiềm năng trở thành công cụ chẩn đoán có giá trị để xác định lựa chọn bệnh nhân cho ICSI-AOA và các nỗ lực nghiên cứu nên tiếp tục tập trung vào việc phát triển chúng.
Nguồn: Nicholson, C. L., Dean, M., Attia, A., Milne, P. A., & da Silva, S. M. (2024). Artificial oocyte activation improves ICSI outcomes following unexplained fertilisation abnormalities. Reproductive BioMedicine Online, 104327.
Giới thiệu
Bên cạnh những lợi ích của các phương pháp hỗ trợ sinh sản thì hiện nay vẫn có trường hợp noãn không thụ tinh hoặc thụ tinh kém sau các chu kì thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) mà không rõ nguyên nhân. Trong đó, sự thất bại trong quá trình hoạt hóa noãn (Oocyte activation deficiency - OAD) được xem là nguyên nhân chính. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng phospholipase C zeta (PLCζ) có liên quan đến quá trình hoạt hóa noãn tự nhiên, thúc đẩy sự giải phóng nồng độ Ca2+ trong tế bào chất ở noãn, là một trong những sự kiện sớm nhất của quá trình thụ tinh. Do đó, sự thiếu hụt hoặc hoạt động bất thường của PLCζ là một trong những nguyên nhân chính gây ra OAD. Để giải quyết vấn đề trên, kỹ thuật hoạt hóa noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation - AOA) được nghiên cứu và thực hiện với nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp điện, cơ học và hóa học (sử dụng Ca2+2+ ionophore, inomycin,…). Hiện nay, ICSI-AOA vẫn chưa được phổ biến rộng rãi trong lâm sàng vì lo ngại về tác dụng lâu dài của mô hình dao động calci trong tế bào chất và thiếu những xét nghiệm để định lượng PLCζ để đánh giá tiềm năng hoạt hóa noãn của tinh trùng. Do đó, bài nghiên cứu này đánh giá tác động của hoạt hóa noãn nhân tạo (AOA) lên tỉ lệ thụ tinh và các kết quả lâm sàng ở những bệnh nhân thất bại thụ tinh hoặc thụ tinh kém không rõ nguyên nhân sau các chu kì IVF/ICSI.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2021 trên 39 cặp vợ chồng có tiền sử thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém (<25%) trong chu kỳ IVF/ICSI trước đó và có nồng độ PLCζ thấp và/ hoặc tỷ lệ tinh trùng biểu hiện PLCζ thấp được đánh giá bằng phương pháp hóa mô miễn dịch. Các trường hợp trên được chỉ định thực hiện ICSI-AOA với Ca2+ ionophore. Kết quả đánh giá bao gồm tỷ lệ thụ tinh, số phôi chuyển, số phôi được trữ lạnh, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Kết quả
Khi so sánh tỷ lệ thụ tinh của các chu kì IVF/ ICSI trước đó với ICSI-AOA thì nhận thấy không có sự khác biệt về số lượng noãn thu được trên mỗi bệnh nhân (8,6 so với 10; p = 0,12) và số lượng noãn được thụ tinh (7,1 so với 8,0; p = 0,26). Tuy nhiên, ICSI-AOA có tỷ lệ thụ tinh cao hơn đáng kể (P<0,0001).
Bên cạnh đó, ICSI-AOA có số lượng bệnh nhân chuyển phôi tươi (94,6% so với 33,3%, P<0,0001), xét nghiệm thai dương tính (29,7% so với 2,6%; P = 0,0012), tỷ lệ mang thai lâm sàng (CPR) và tỷ lệ sống (LBR) (18,9% so với 2,6%; P = 0,02) cao hơn đáng kể so với các chu kì IVF/ICSI trước đó.
Khi đánh giá kết quả trữ lạnh phôi thì ở các chu kì ICSI-AOA có phôi được được trữ lạnh cao hơn đáng kể so với các chu kì IVF/ICSI trước đó (43,6% so với 0%, P<0,0001). Khi đánh giá kết quả chuyển phôi trữ thì nhận thấy rằng ở nhóm ICSI-AOA cho kết quả CPR (41,0% so với 2,6%; P < 0,0001) và LBR (38,5% so với 2,6%; P < 0,0001) cao hơn đáng kể so với nhóm IVF/ICSI.
Ở nhóm có tỷ lệ tinh trùng biểu hiện PLC zeta thấp nhận thấy rằng khi thực hiện ICSI-AOA cho tỷ lệ thụ tinh cao hơn đáng kể so với các chu kì IVF/ICSI (66,3% so với 4,6%; P < 0,0001).
Bàn luận
Sự thiếu hụt PLCζ là một trong những nguyên nhân gây thất bại thụ tinh hoàn toàn hay thụ tinh kém sau ICSI. Tuy nhiên hiện tại vẫn chưa có phương pháp điều trị trực tiếp nào cho các trường hợp thiếu hụt PLCζ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng PLCζ tái tổ hợp có thể hứa hẹn để khắc phục tìn trạng trên nhưng cho đến nay vẫn chưa được ứng dụng trong lâm sàng. Bên cạnh đó, ICSI-AOA sử dụng Ca2+ ionophore được báo cáo là có khả năng khắc phục tình trạng OAD và giúp cải thiện tỷ lệ thụ tinh, CPR và LBR. Kết quả nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng về việc cải thiện kết quả lâm sàng cho các bệnh nhân thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém sau ICSI.
Kết luận
AOA là một công cụ mạnh mẽ có thể chuyển đổi kết quả lâm sàng cho các cặp đôi gặp phải những bất thường về thụ tinh không rõ nguyên nhân. Các xét nghiệm PLCζ có tiềm năng trở thành công cụ chẩn đoán có giá trị để xác định lựa chọn bệnh nhân cho ICSI-AOA và các nỗ lực nghiên cứu nên tiếp tục tập trung vào việc phát triển chúng.
Nguồn: Nicholson, C. L., Dean, M., Attia, A., Milne, P. A., & da Silva, S. M. (2024). Artificial oocyte activation improves ICSI outcomes following unexplained fertilisation abnormalities. Reproductive BioMedicine Online, 104327.
Các tin khác cùng chuyên mục:










TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Cập nhật lịch tổ chức sự kiện và xuất bản ấn phẩm của ...
Năm 2020
Wyndham Legend Halong, Sáng thứ Bảy 22 . 3 . 2025 (8:30 - 11:45)
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
FACEBOOK