Tin tức
on Sunday 29-09-2024 2:44pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trần Tiến Ninh, Ths. Lê Thị Bích Phượng – Olea Fertility Nha Trang - Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Nha Trang
Giới thiệu
Đa thai được xem là một trong những biến chứng nghiêm trọng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology − ART). Hiện nay, việc kéo dài thời gian nuôi cấy để chọn lọc phôi và chuyển phôi đơn (Single embryo transfer − SET) được xem là phương pháp hiệu quả để giảm tỉ lệ đa thai. Tuy nhiên, SET không thể ngăn chặn hiện tượng phân tách phôi như thụ thai tự nhiên, vì vậy vẫn có nguy cơ đa thai.
Sinh đôi cùng trứng (Monozygotic twins − MZT) là kết quả của hiện tượng phân tách từ một hợp tử thành hai phôi, là một loại đa thai đặc biệt. Tần suất xuất hiện của MZT sau điều trị ART tăng ít nhất 2-3 lần so với mang thai tự nhiên và khoảng 1,5% các trường hợp thai từ thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization − IVF) là MZT.
Phụ nữ mang thai MZT có nguy cơ biến chứng ở cả mẹ và thai nhi cao hơn so với những người mang thai đơn hoặc thai đôi khác trứng. Trong thời gian mang thai, MZT làm tăng tỉ lệ sẩy thai, sinh non, nhẹ cân, loạn sản, chậm tăng trưởng, tăng tỉ lệ mắc bệnh và tử vong ở phụ nữ mang thai. Một nghiên cứu báo cáo rằng 95% trường hợp MZT sau điều trị ART là mang thai đôi một bánh nhau. Ở trường hợp này, người phụ nữ có nguy cơ mắc các biến chứng nghiêm trọng như hội chứng truyền máu song thai (Twin to-twin transfusion syndrome – TTTS), hội chứng đảo ngược tưới máu động mạch song thai, hội chứng thiếu máu – đa hồng cầu song thai, đơn thai lưu trong tử cung và thai chậm tăng trưởng trong tử cung. Tầm soát di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing − PGT) và chọc hút tinh trùng từ tinh hoàn (Testicular sperm aspiration − TESA) đã được thực hiện rộng rãi trong vài năm gần đây. Tuy nhiên, ảnh hưởng của kỹ thuật sinh thiết phôi và chất lượng tinh trùng thu nhận từ tinh hoàn lên kết quả thai vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Xem xét các rủi ro tiềm ẩn liên quan đến MZT, nhiều nghiên cứu chuyên sâu về mối liên hệ giữa ART và MZT đã được thực hiện. Hầu hết các nghiên cứu về MZT sau khi điều trị ART chỉ tập trung vào việc xác định tần suất MZT và đánh giá các nguyên nhân liên quan với một vài nghiên cứu mô tả kết quả thai kỳ và sơ sinh. Trong nghiên cứu này, Li và cộng sự đã thu thập dữ liệu MZT từ 187 trường hợp chuyển đơn phôi từ 2010 đến 2020. Nhóm tác giả đã phân tích các yếu tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến tần suất MZT và xem xét ảnh hưởng của các phương pháp ART khác nhau đến kết quả sản khoa và sơ sinh của thai kỳ MZT, để cung cấp thêm bằng chứng và đưa ra hướng dẫn cho phương pháp điều trị PGT và TESA, từ đó cải thiện quá trình tư vấn cho bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị ART.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 7 năm 2020 trên các trường hợp mang thai MZT sau khi chuyển đơn phôi trong các chu kỳ IVF, ICSI, PGT và TESA.
Bệnh nhân được chia thành bốn nhóm dựa trên phương pháp điều trị ART, bao gồm: (1) IVF, (2) ICSI, (3) PGT và (4) TESA.
Kết quả
Trong 19.081 chu kỳ SET, 187 chu kỳ được xác định là MZT (tương ứng với tỉ lệ 0,98%). Phân tích tổng tỉ lệ MZT khi chuyển đơn phôi tươi và đông lạnh cho thấy tỉ lệ MZT ở nhóm chuyển phôi đông lạnh cao hơn so với nhóm chuyển phôi tươi (p = 0,048). Tuy nhiên, không có sự khác biệt về tỉ lệ MZT giữa 4 nhóm ART (p = 0,259), bất kể là chu kỳ tươi (p = 0,515) hay đông lạnh (p = 0,430).
Về kết quả thai, nhóm ICSI có tỉ lệ sinh sống cao nhất (31/35, 88,5%, p = 0,012) so với các nhóm IVF, PGT và TESA lần lượt là 60,5% (43/71), 77,2% (51/66) và 80% (12/15). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 4 nhóm về tỉ lệ sinh non, sinh đủ tháng, số ngày mang thai, sinh mổ, giảm thai tự nhiên và giảm thai bằng phẫu thuật. So với ba nhóm còn lại, nhóm IVF có tỉ lệ sẩy thai (28/71, 39,4%, p = 0,012) và tỉ lệ sẩy thai sớm cao nhất (21/71, 29,5%, p = 0,049). Không có sự khác biệt về tỉ lệ sẩy thai muộn giữa các nhóm (p = 0,743). Không có sự khác biệt về các biến chứng thai kỳ giữa 4 nhóm, ngoại trừ tỉ lệ TTTS. Tổng tỉ lệ TTTS trong thai kỳ MZT là 2,7% (5/187), nhóm TESA có tỉ lệ TTTS cao nhất ở mức 20% và cao hơn đáng kể so với nhóm PGT (p = 0,005). Không có sự khác biệt về tỉ lệ sinh sống hoặc sẩy thai khi chuyển phôi ngày 3, ngày 5 hoặc ngày 6 (p = 0,636).
Ở kết quả sơ sinh, có 72 em bé sinh sống trong nhóm IVF, 57 cho ICSI, 86 cho PGT và 19 cho TESA. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng khi sinh (p = 0,151), trẻ sơ sinh nhẹ cân (p = 0,115) hoặc dị tật bẩm sinh trong số 4 phương pháp ART.
Thảo luận
Tỉ lệ MZT tổng thể là 0,98%, phù hợp với các nghiên cứu trước đó. Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ MZT giữa các phương pháp điều trị ART khác nhau. Từ đó, chứng minh rằng các kỹ thuật vi thao tác trên tinh trùng và phôi như ICSI, PGT và TESA không làm tăng tỉ lệ MZT so với IVF.
Nghiên cứu cho thấy các chu kỳ SET đông lạnh có nguy cơ MZT cao hơn SET tươi. Nhưng khi phân tích tỉ lệ MZT riêng biệt trong từng nhóm, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa SET tươi và đông lạnh. Sự khác biệt này có thể là do số lượng ca MZT không đủ lớn trong mỗi nhóm. Một số nghiên cứu đã kết luận tỉ lệ MZT tăng khi chuyển phôi đông lạnh có thể liên quan đến hiện tượng cứng của Zona pellucida. Ngược lại, có nghiên cứu cho rằng trữ lạnh phôi không ảnh hưởng đến tỉ lệ MZT. Mối liên quan giữa tỉ lệ MZT và chuyển phôi đông lạnh vẫn còn gây tranh cãi và cần nghiên cứu thêm.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thai MZT từ kỹ thuật IVF có tỉ lệ mất thai và sẩy thai sớm cao. Ba nhóm còn lại (ICSI, PGT, TESA) có tỉ lệ mất thai thấp hơn, chứng minh các kỹ thuật vi thao tác có thể không ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả sản khoa ở MZT. Tỉ lệ giảm thai tự nhiên trong nghiên cứu cũng phù hợp với các báo cáo trước, cho thấy các phương pháp điều trị khác nhau không ảnh hưởng đến xác suất giảm thai.
Giải thích cho kết quả tỉ lệ TTTS cao hơn đáng kể ở nhóm TESA, nhóm tác giả đề xuất rằng tinh trùng có nguồn gốc khác nhau có thể có các gen biểu hiện khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành mạch máu nhau thai và chất lượng nhau thai. Và những tác động này có thể đóng một vai trò trong sự xuất hiện TTTS và giải thích cho tỉ lệ mắc TTTS tăng lên khi điều trị TESA.
Không có sự ảnh hưởng đáng kể đến cân nặng khi sinh, trẻ sơ sinh nhẹ cân và dị tật bẩm sinh trong bốn nhóm điều trị ART. Tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở mỗi nhóm đều thấp hơn so với các báo cáo trước. Tuy nhiên, do tỉ lệ mắc TTTS cao trong MZT, điều cần lưu ý là phải thực hiện siêu âm tim thai và đánh giá tim sau sinh thường xuyên trong thai kỳ MZT.
Kết quả cho thấy MZT trong các chu kỳ PGT hoặc TESA không ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả sơ sinh và điều này giúp các cặp vợ chồng đang cân nhắc sử dụng tinh trùng từ phẫu thuật hoặc sinh thiết phôi an tâm hơn.
Kết luận
Tỉ lệ MZT giữa bốn phương pháp điều trị IVF, ICSI, PGT và TESA là tương tự nhau. Các phương pháp có tác động khác nhau đến kết quả thai kỳ của MZT, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả sơ sinh. Mất thai và tỉ lệ sẩy thai sớm của MZT tăng lên ở bệnh nhân IVF. Cả nguyên nhân gây vô sinh và tiền sử sẩy thai đều không tương quan với nguy cơ mất thai.
MZT trong nhóm TESA có nguy cơ mắc TTTS cao hơn và sự phát triển của nhau thai có thể bị ảnh hưởng bởi tinh trùng và gen biểu hiện của cha. Tuy nhiên, do tổng số nhỏ, các nghiên cứu với kích thước mẫu lớn hơn vẫn cần thiết để xác nhận kết quả này. Kết quả thai kỳ và sơ sinh của MZT sau khi điều trị PGT tương đối khả quan nhưng thời gian nghiên cứu ngắn, cần theo dõi lâu dài trẻ em để kết luận. Xem xét các biến chứng nghiêm trọng liên quan đến MZT, các yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ MZT trong chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh cần được nghiên cứu thêm.
Nguồn: Li, Y., Chang, Q. & Mai, Q. Pregnancy and neonatal outcomes of monozygotic twins resulting from assisted reproductive technology: a 10-year retrospective study. Reprod Biol Endocrinol 21, 51 (2023).
Giới thiệu
Đa thai được xem là một trong những biến chứng nghiêm trọng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive technology − ART). Hiện nay, việc kéo dài thời gian nuôi cấy để chọn lọc phôi và chuyển phôi đơn (Single embryo transfer − SET) được xem là phương pháp hiệu quả để giảm tỉ lệ đa thai. Tuy nhiên, SET không thể ngăn chặn hiện tượng phân tách phôi như thụ thai tự nhiên, vì vậy vẫn có nguy cơ đa thai.
Sinh đôi cùng trứng (Monozygotic twins − MZT) là kết quả của hiện tượng phân tách từ một hợp tử thành hai phôi, là một loại đa thai đặc biệt. Tần suất xuất hiện của MZT sau điều trị ART tăng ít nhất 2-3 lần so với mang thai tự nhiên và khoảng 1,5% các trường hợp thai từ thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization − IVF) là MZT.
Phụ nữ mang thai MZT có nguy cơ biến chứng ở cả mẹ và thai nhi cao hơn so với những người mang thai đơn hoặc thai đôi khác trứng. Trong thời gian mang thai, MZT làm tăng tỉ lệ sẩy thai, sinh non, nhẹ cân, loạn sản, chậm tăng trưởng, tăng tỉ lệ mắc bệnh và tử vong ở phụ nữ mang thai. Một nghiên cứu báo cáo rằng 95% trường hợp MZT sau điều trị ART là mang thai đôi một bánh nhau. Ở trường hợp này, người phụ nữ có nguy cơ mắc các biến chứng nghiêm trọng như hội chứng truyền máu song thai (Twin to-twin transfusion syndrome – TTTS), hội chứng đảo ngược tưới máu động mạch song thai, hội chứng thiếu máu – đa hồng cầu song thai, đơn thai lưu trong tử cung và thai chậm tăng trưởng trong tử cung. Tầm soát di truyền tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing − PGT) và chọc hút tinh trùng từ tinh hoàn (Testicular sperm aspiration − TESA) đã được thực hiện rộng rãi trong vài năm gần đây. Tuy nhiên, ảnh hưởng của kỹ thuật sinh thiết phôi và chất lượng tinh trùng thu nhận từ tinh hoàn lên kết quả thai vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Xem xét các rủi ro tiềm ẩn liên quan đến MZT, nhiều nghiên cứu chuyên sâu về mối liên hệ giữa ART và MZT đã được thực hiện. Hầu hết các nghiên cứu về MZT sau khi điều trị ART chỉ tập trung vào việc xác định tần suất MZT và đánh giá các nguyên nhân liên quan với một vài nghiên cứu mô tả kết quả thai kỳ và sơ sinh. Trong nghiên cứu này, Li và cộng sự đã thu thập dữ liệu MZT từ 187 trường hợp chuyển đơn phôi từ 2010 đến 2020. Nhóm tác giả đã phân tích các yếu tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến tần suất MZT và xem xét ảnh hưởng của các phương pháp ART khác nhau đến kết quả sản khoa và sơ sinh của thai kỳ MZT, để cung cấp thêm bằng chứng và đưa ra hướng dẫn cho phương pháp điều trị PGT và TESA, từ đó cải thiện quá trình tư vấn cho bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị ART.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 7 năm 2020 trên các trường hợp mang thai MZT sau khi chuyển đơn phôi trong các chu kỳ IVF, ICSI, PGT và TESA.
Bệnh nhân được chia thành bốn nhóm dựa trên phương pháp điều trị ART, bao gồm: (1) IVF, (2) ICSI, (3) PGT và (4) TESA.
Kết quả
Trong 19.081 chu kỳ SET, 187 chu kỳ được xác định là MZT (tương ứng với tỉ lệ 0,98%). Phân tích tổng tỉ lệ MZT khi chuyển đơn phôi tươi và đông lạnh cho thấy tỉ lệ MZT ở nhóm chuyển phôi đông lạnh cao hơn so với nhóm chuyển phôi tươi (p = 0,048). Tuy nhiên, không có sự khác biệt về tỉ lệ MZT giữa 4 nhóm ART (p = 0,259), bất kể là chu kỳ tươi (p = 0,515) hay đông lạnh (p = 0,430).
Về kết quả thai, nhóm ICSI có tỉ lệ sinh sống cao nhất (31/35, 88,5%, p = 0,012) so với các nhóm IVF, PGT và TESA lần lượt là 60,5% (43/71), 77,2% (51/66) và 80% (12/15). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 4 nhóm về tỉ lệ sinh non, sinh đủ tháng, số ngày mang thai, sinh mổ, giảm thai tự nhiên và giảm thai bằng phẫu thuật. So với ba nhóm còn lại, nhóm IVF có tỉ lệ sẩy thai (28/71, 39,4%, p = 0,012) và tỉ lệ sẩy thai sớm cao nhất (21/71, 29,5%, p = 0,049). Không có sự khác biệt về tỉ lệ sẩy thai muộn giữa các nhóm (p = 0,743). Không có sự khác biệt về các biến chứng thai kỳ giữa 4 nhóm, ngoại trừ tỉ lệ TTTS. Tổng tỉ lệ TTTS trong thai kỳ MZT là 2,7% (5/187), nhóm TESA có tỉ lệ TTTS cao nhất ở mức 20% và cao hơn đáng kể so với nhóm PGT (p = 0,005). Không có sự khác biệt về tỉ lệ sinh sống hoặc sẩy thai khi chuyển phôi ngày 3, ngày 5 hoặc ngày 6 (p = 0,636).
Ở kết quả sơ sinh, có 72 em bé sinh sống trong nhóm IVF, 57 cho ICSI, 86 cho PGT và 19 cho TESA. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng khi sinh (p = 0,151), trẻ sơ sinh nhẹ cân (p = 0,115) hoặc dị tật bẩm sinh trong số 4 phương pháp ART.
Thảo luận
Tỉ lệ MZT tổng thể là 0,98%, phù hợp với các nghiên cứu trước đó. Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ MZT giữa các phương pháp điều trị ART khác nhau. Từ đó, chứng minh rằng các kỹ thuật vi thao tác trên tinh trùng và phôi như ICSI, PGT và TESA không làm tăng tỉ lệ MZT so với IVF.
Nghiên cứu cho thấy các chu kỳ SET đông lạnh có nguy cơ MZT cao hơn SET tươi. Nhưng khi phân tích tỉ lệ MZT riêng biệt trong từng nhóm, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa SET tươi và đông lạnh. Sự khác biệt này có thể là do số lượng ca MZT không đủ lớn trong mỗi nhóm. Một số nghiên cứu đã kết luận tỉ lệ MZT tăng khi chuyển phôi đông lạnh có thể liên quan đến hiện tượng cứng của Zona pellucida. Ngược lại, có nghiên cứu cho rằng trữ lạnh phôi không ảnh hưởng đến tỉ lệ MZT. Mối liên quan giữa tỉ lệ MZT và chuyển phôi đông lạnh vẫn còn gây tranh cãi và cần nghiên cứu thêm.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thai MZT từ kỹ thuật IVF có tỉ lệ mất thai và sẩy thai sớm cao. Ba nhóm còn lại (ICSI, PGT, TESA) có tỉ lệ mất thai thấp hơn, chứng minh các kỹ thuật vi thao tác có thể không ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả sản khoa ở MZT. Tỉ lệ giảm thai tự nhiên trong nghiên cứu cũng phù hợp với các báo cáo trước, cho thấy các phương pháp điều trị khác nhau không ảnh hưởng đến xác suất giảm thai.
Giải thích cho kết quả tỉ lệ TTTS cao hơn đáng kể ở nhóm TESA, nhóm tác giả đề xuất rằng tinh trùng có nguồn gốc khác nhau có thể có các gen biểu hiện khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành mạch máu nhau thai và chất lượng nhau thai. Và những tác động này có thể đóng một vai trò trong sự xuất hiện TTTS và giải thích cho tỉ lệ mắc TTTS tăng lên khi điều trị TESA.
Không có sự ảnh hưởng đáng kể đến cân nặng khi sinh, trẻ sơ sinh nhẹ cân và dị tật bẩm sinh trong bốn nhóm điều trị ART. Tỉ lệ dị tật bẩm sinh ở mỗi nhóm đều thấp hơn so với các báo cáo trước. Tuy nhiên, do tỉ lệ mắc TTTS cao trong MZT, điều cần lưu ý là phải thực hiện siêu âm tim thai và đánh giá tim sau sinh thường xuyên trong thai kỳ MZT.
Kết quả cho thấy MZT trong các chu kỳ PGT hoặc TESA không ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả sơ sinh và điều này giúp các cặp vợ chồng đang cân nhắc sử dụng tinh trùng từ phẫu thuật hoặc sinh thiết phôi an tâm hơn.
Kết luận
Tỉ lệ MZT giữa bốn phương pháp điều trị IVF, ICSI, PGT và TESA là tương tự nhau. Các phương pháp có tác động khác nhau đến kết quả thai kỳ của MZT, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả sơ sinh. Mất thai và tỉ lệ sẩy thai sớm của MZT tăng lên ở bệnh nhân IVF. Cả nguyên nhân gây vô sinh và tiền sử sẩy thai đều không tương quan với nguy cơ mất thai.
MZT trong nhóm TESA có nguy cơ mắc TTTS cao hơn và sự phát triển của nhau thai có thể bị ảnh hưởng bởi tinh trùng và gen biểu hiện của cha. Tuy nhiên, do tổng số nhỏ, các nghiên cứu với kích thước mẫu lớn hơn vẫn cần thiết để xác nhận kết quả này. Kết quả thai kỳ và sơ sinh của MZT sau khi điều trị PGT tương đối khả quan nhưng thời gian nghiên cứu ngắn, cần theo dõi lâu dài trẻ em để kết luận. Xem xét các biến chứng nghiêm trọng liên quan đến MZT, các yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ MZT trong chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh cần được nghiên cứu thêm.
Nguồn: Li, Y., Chang, Q. & Mai, Q. Pregnancy and neonatal outcomes of monozygotic twins resulting from assisted reproductive technology: a 10-year retrospective study. Reprod Biol Endocrinol 21, 51 (2023).
Từ khóa: MZT, IVF, ICSI, PGT, TESA.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Bất động tinh trùng nhiều lần có thể cải thiện kết cục sinh sản ở những bệnh nhân có thông số tinh dịch không tối ưu và thất bại thụ tinh ICSI trước đó - Ngày đăng: 29-09-2024
Sự ra đời của 32 trẻ khoẻ mạnh sau khi chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh sau rã đông có nguồn gốc từ hợp tử 1PN: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 27-09-2024
So sánh kết quả thai kỳ và dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF): một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 27-09-2024
Dự đoán các biến chứng liên quan đến thai kỳ ở phụ nữ đang thực hiện hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp học máy - Ngày đăng: 27-09-2024
Phân mảnh DNA tinh trùng cao làm tăng tỉ lệ phôi lệch bội ở nhóm bệnh nhân xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) - Ngày đăng: 27-09-2024
Tổng số tinh trùng di động thấp ở người hiến không ảnh hưởng đến tỷ lệ thai khi thực hiện IUI - Ngày đăng: 25-09-2024
Thủy tinh hóa noãn trước hoặc sau khi Rescue-IVM không làm suy yếu động học trưởng thành nhưng gây ra những biển đổi về thoi vô sắc trong giảm phân - Ngày đăng: 25-09-2024
Bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng (DOR) không ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi lệch bội hoặc trẻ sinh sống so với phụ nữ bình thường - Ngày đăng: 25-09-2024
Các tiến bộ trong việc chẩn đoán vô sinh ở nam giới - Ngày đăng: 24-09-2024
Trữ noãn xã hội- xu hướng hay thực tế hiện đại? - Ngày đăng: 24-09-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK