Tin tức
on Friday 27-09-2024 7:03am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
Tổng quan
Trong hỗ trợ sinh sản, thụ tinh thành công dựa trên sự xuất hiện của hai tiền nhân: một từ noãn (tiền nhân cái, m-PN) và một từ tinh trùng (tiền nhân đực, p-PN). Hợp tử thụ tinh bình thường sẽ có 2PN sau 16 đến 18 giờ sau thụ tinh. Sự hiện diện của nhiều hơn 2PN thường bị loại bỏ do nguy cơ lệch bội cao. Hiện nay vẫn còn tranh cãi về việc có nên sử dụng phôi được tạo ra từ hợp tử 1PN hay không. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng cần thực hiện thêm các phân tích khác như: theo dõi qua hệ thống time-lapse, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ trước chuyển phôi (Preimplantation genetic testing - PGT) hoặc phân tích các thông số hình thái, như kích thước và đường kính tiền nhân. Tuy nhiên, một số trung tâm đã thực hiện chuyển phôi 1PN mà không thực hiện thêm các phân tích này vẫn đạt được kết quả phát triển phôi tốt.
Nghiên cứu hồi cứu này nhằm đánh giá kết quả phát triển phôi, tỉ lệ trẻ sinh sống và kết quả sơ sinh trong chu kỳ chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh sau rã đông từ hợp tử 1PN (bao gồm IVF cổ điển (cIVF) và ICSI). Đồng thời, so sánh kết quả với phôi từ hợp tử 2PN trên cùng nhóm bệnh nhân.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu tổng hợp, phân tích hồi cứu các kết quả được thực hiện tại Bệnh viện Citadelle, Bỉ trong khoảng thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng 12/2022. Nghiên cứu phân thành 2 nhóm: nhóm 1 gồm 2762 chu kỳ chuyển phôi tươi, nhóm 2 gồm 167 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh sau rã đông. Tiêu chí lựa chọn là những bệnh nhân trải qua chu kỳ cIVF hoặc ICSI và có ít nhất một hợp tử 1PN. Kết quả phôi và trẻ sơ sinh được nghiên cứu dựa trên 1234 hợp tử 1PN từ chu kỳ chuyển phôi tươi (bao gồm 648 cIVF và 586 ICSI).
Kết quả
Đối với kết quả phôi, trong số 1234 hợp tử 1PN, 46,3% có khả năng phát triển thành phôi chất lượng đủ để chuyển hoặc đông lạnh (vào ngày 2, 3 hoặc 5/6) trong nhóm cIVF. Tuy nhiên, tỉ lệ này thấp hơn đáng kể (33,4%) ở nhóm ICSI (p<0,001). Không có sự khác biệt giữa hai nhóm đối với điểm số A, B hoặc C về chất lượng phôi. Tỉ lệ phát triển thành phôi nang cao hơn đáng kể ở nhóm cIVF so với nhóm ICSI (44,4%) so với (20,1%) (p<0,001).
Nghiên cứu so sánh kết quả giữa phôi 1PN và 2PN cho thấy, các chu kỳ chuyển phôi tươi 1PN (nhóm 1) có tỉ lệ mang thai (PR) và tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) ở nhóm cIVF tương đương với phôi 2PN đông lạnh (lần lượt là 21,9% so với 24%; 15,6% so với 18%). Tuy nhiên, ở nhóm ICSI, tỉ lệ mang thai và tỉ lệ trẻ sinh sống phôi 2PN đông lạnh cao hơn so với phôi 1PN (54% so với 12,5% với p<0,05 và 15% so với 3,1%). Ngược lại, đối với chu kỳ chuyển phôi đông lạnh sau rã đông phôi 1PN (nhóm 2), không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ mang thai và tỉ lệ trẻ sinh sống giữa phôi 1PN và 2PN ở cả hai nhóm cIVF và ICSI. Ngoài ra, tỉ lệ sảy thai ở nhóm cIVF có xu hướng cao hơn trong các trường hợp chuyển phôi 2PN so với phôi 1PN (48% so với 29,2%).
Từ dữ liệu sơ sinh cho thấy, có tám ca sinh trước tuần thai thứ 37 và một ca sinh trước tuần thai thứ 32 trong tất cả các ca sinh trong nghiên cứu này. Tỉ lệ giới tính cân bằng giữa các nhóm phôi 1PN, với tỉ lệ giới tính chung là 1,13 cho 32 ca sinh. Cân nặng khi sinh ở nhóm chu kỳ đông lạnh phôi cao hơn so với chu kỳ chuyển phôi tươi, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bàn luận
Dựa vào kết quả so sánh cho thấy phôi được tạo ra từ hợp tử 2PN phát triển tốt hơn so với phôi 1PN. Phôi 1PN có tỉ lệ tạo phôi nang và phôi chất lượng tốt thấp thường được cho là do bất thường nhiễm sắc thể. Trong kết quả nghiên cứu, tỉ lệ phôi 1PN phát triển đến giai đoạn phôi nang ở nhóm cIVF cao gấp đôi so với nhóm ICSI (44,4% so với 20,1%), mặc dù nhóm bệnh nhân cIVF có độ tuổi cao hơn (p<0,001). Điều này cho thấy hiệu quả của phương pháp cIVF trong các trường hợp chất lượng tinh trùng tốt. Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ mang thai, tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ sảy thai giữa 2 nhóm phôi 1PN và phôi 2PN, ngoại trừ nhóm ICSI. Tổng cộng có 32 trẻ sinh sống được sinh ra sau khi chuyển phôi có nguồn gốc từ hợp tử 1PN và không có sự khác biệt về cân bằng giới tính giữa các nhóm, với tỉ lệ giới tính chung (nam/nữ) là 1,13.
Nghiên cứu cho thấy việc chuyển phôi 1PN có thể được cân nhắc sử dụng nếu có khả năng phát triển đến giai đoạn phôi nang với chất lượng hình thái đủ tốt. Nghiên cứu này có hạn chế về cỡ mẫu bệnh nhân, vì vậy cần có thêm nghiên cứu so sánh tương tự với cỡ mẫu lớn hơn để xác nhận phát hiện của nghiên cứu này. Mặt khác, điểm mạnh của nghiên cứu là so sánh kết quả giữa phôi 1PN và phôi 2PN trên cùng nhóm bệnh nhân, giúp giảm thiểu sự sai lệch.
Nguồn: Labied S, Wenders F, Gaspard O, et al. Birth of Thirty-Two Healthy Babies Following Transfer of Fresh and Frozen-Thawed Embryos Derived from Monopronuclear Zygotes: A Retrospective Study. Medicina (Kaunas). 2024;60(8):1361. Published 2024 Aug 21. doi:10.3390/medicina60081361
Tổng quan
Trong hỗ trợ sinh sản, thụ tinh thành công dựa trên sự xuất hiện của hai tiền nhân: một từ noãn (tiền nhân cái, m-PN) và một từ tinh trùng (tiền nhân đực, p-PN). Hợp tử thụ tinh bình thường sẽ có 2PN sau 16 đến 18 giờ sau thụ tinh. Sự hiện diện của nhiều hơn 2PN thường bị loại bỏ do nguy cơ lệch bội cao. Hiện nay vẫn còn tranh cãi về việc có nên sử dụng phôi được tạo ra từ hợp tử 1PN hay không. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng cần thực hiện thêm các phân tích khác như: theo dõi qua hệ thống time-lapse, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ trước chuyển phôi (Preimplantation genetic testing - PGT) hoặc phân tích các thông số hình thái, như kích thước và đường kính tiền nhân. Tuy nhiên, một số trung tâm đã thực hiện chuyển phôi 1PN mà không thực hiện thêm các phân tích này vẫn đạt được kết quả phát triển phôi tốt.
Nghiên cứu hồi cứu này nhằm đánh giá kết quả phát triển phôi, tỉ lệ trẻ sinh sống và kết quả sơ sinh trong chu kỳ chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh sau rã đông từ hợp tử 1PN (bao gồm IVF cổ điển (cIVF) và ICSI). Đồng thời, so sánh kết quả với phôi từ hợp tử 2PN trên cùng nhóm bệnh nhân.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu tổng hợp, phân tích hồi cứu các kết quả được thực hiện tại Bệnh viện Citadelle, Bỉ trong khoảng thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng 12/2022. Nghiên cứu phân thành 2 nhóm: nhóm 1 gồm 2762 chu kỳ chuyển phôi tươi, nhóm 2 gồm 167 chu kỳ chuyển phôi đông lạnh sau rã đông. Tiêu chí lựa chọn là những bệnh nhân trải qua chu kỳ cIVF hoặc ICSI và có ít nhất một hợp tử 1PN. Kết quả phôi và trẻ sơ sinh được nghiên cứu dựa trên 1234 hợp tử 1PN từ chu kỳ chuyển phôi tươi (bao gồm 648 cIVF và 586 ICSI).
Kết quả
Đối với kết quả phôi, trong số 1234 hợp tử 1PN, 46,3% có khả năng phát triển thành phôi chất lượng đủ để chuyển hoặc đông lạnh (vào ngày 2, 3 hoặc 5/6) trong nhóm cIVF. Tuy nhiên, tỉ lệ này thấp hơn đáng kể (33,4%) ở nhóm ICSI (p<0,001). Không có sự khác biệt giữa hai nhóm đối với điểm số A, B hoặc C về chất lượng phôi. Tỉ lệ phát triển thành phôi nang cao hơn đáng kể ở nhóm cIVF so với nhóm ICSI (44,4%) so với (20,1%) (p<0,001).
Nghiên cứu so sánh kết quả giữa phôi 1PN và 2PN cho thấy, các chu kỳ chuyển phôi tươi 1PN (nhóm 1) có tỉ lệ mang thai (PR) và tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) ở nhóm cIVF tương đương với phôi 2PN đông lạnh (lần lượt là 21,9% so với 24%; 15,6% so với 18%). Tuy nhiên, ở nhóm ICSI, tỉ lệ mang thai và tỉ lệ trẻ sinh sống phôi 2PN đông lạnh cao hơn so với phôi 1PN (54% so với 12,5% với p<0,05 và 15% so với 3,1%). Ngược lại, đối với chu kỳ chuyển phôi đông lạnh sau rã đông phôi 1PN (nhóm 2), không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ mang thai và tỉ lệ trẻ sinh sống giữa phôi 1PN và 2PN ở cả hai nhóm cIVF và ICSI. Ngoài ra, tỉ lệ sảy thai ở nhóm cIVF có xu hướng cao hơn trong các trường hợp chuyển phôi 2PN so với phôi 1PN (48% so với 29,2%).
Từ dữ liệu sơ sinh cho thấy, có tám ca sinh trước tuần thai thứ 37 và một ca sinh trước tuần thai thứ 32 trong tất cả các ca sinh trong nghiên cứu này. Tỉ lệ giới tính cân bằng giữa các nhóm phôi 1PN, với tỉ lệ giới tính chung là 1,13 cho 32 ca sinh. Cân nặng khi sinh ở nhóm chu kỳ đông lạnh phôi cao hơn so với chu kỳ chuyển phôi tươi, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bàn luận
Dựa vào kết quả so sánh cho thấy phôi được tạo ra từ hợp tử 2PN phát triển tốt hơn so với phôi 1PN. Phôi 1PN có tỉ lệ tạo phôi nang và phôi chất lượng tốt thấp thường được cho là do bất thường nhiễm sắc thể. Trong kết quả nghiên cứu, tỉ lệ phôi 1PN phát triển đến giai đoạn phôi nang ở nhóm cIVF cao gấp đôi so với nhóm ICSI (44,4% so với 20,1%), mặc dù nhóm bệnh nhân cIVF có độ tuổi cao hơn (p<0,001). Điều này cho thấy hiệu quả của phương pháp cIVF trong các trường hợp chất lượng tinh trùng tốt. Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ mang thai, tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ sảy thai giữa 2 nhóm phôi 1PN và phôi 2PN, ngoại trừ nhóm ICSI. Tổng cộng có 32 trẻ sinh sống được sinh ra sau khi chuyển phôi có nguồn gốc từ hợp tử 1PN và không có sự khác biệt về cân bằng giới tính giữa các nhóm, với tỉ lệ giới tính chung (nam/nữ) là 1,13.
Nghiên cứu cho thấy việc chuyển phôi 1PN có thể được cân nhắc sử dụng nếu có khả năng phát triển đến giai đoạn phôi nang với chất lượng hình thái đủ tốt. Nghiên cứu này có hạn chế về cỡ mẫu bệnh nhân, vì vậy cần có thêm nghiên cứu so sánh tương tự với cỡ mẫu lớn hơn để xác nhận phát hiện của nghiên cứu này. Mặt khác, điểm mạnh của nghiên cứu là so sánh kết quả giữa phôi 1PN và phôi 2PN trên cùng nhóm bệnh nhân, giúp giảm thiểu sự sai lệch.
Nguồn: Labied S, Wenders F, Gaspard O, et al. Birth of Thirty-Two Healthy Babies Following Transfer of Fresh and Frozen-Thawed Embryos Derived from Monopronuclear Zygotes: A Retrospective Study. Medicina (Kaunas). 2024;60(8):1361. Published 2024 Aug 21. doi:10.3390/medicina60081361
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh kết quả thai kỳ và dị tật bẩm sinh ở trẻ sinh ra từ kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF): một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 27-09-2024
Dự đoán các biến chứng liên quan đến thai kỳ ở phụ nữ đang thực hiện hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp học máy - Ngày đăng: 27-09-2024
Phân mảnh DNA tinh trùng cao làm tăng tỉ lệ phôi lệch bội ở nhóm bệnh nhân xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) - Ngày đăng: 27-09-2024
Tổng số tinh trùng di động thấp ở người hiến không ảnh hưởng đến tỷ lệ thai khi thực hiện IUI - Ngày đăng: 25-09-2024
Thủy tinh hóa noãn trước hoặc sau khi Rescue-IVM không làm suy yếu động học trưởng thành nhưng gây ra những biển đổi về thoi vô sắc trong giảm phân - Ngày đăng: 25-09-2024
Bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng (DOR) không ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi lệch bội hoặc trẻ sinh sống so với phụ nữ bình thường - Ngày đăng: 25-09-2024
Các tiến bộ trong việc chẩn đoán vô sinh ở nam giới - Ngày đăng: 24-09-2024
Trữ noãn xã hội- xu hướng hay thực tế hiện đại? - Ngày đăng: 24-09-2024
Sử dụng môi trường oxy hai pha cải thiện sự hình thành phôi nang có thể chuyển được ở những bệnh nhân không có phôi nguyên bội trong các chu kỳ oxy đơn pha trước đó - Ngày đăng: 24-09-2024
Kết quả thai và sơ sinh của kỹ thuật ICSI sử dụng pentoxifylline để xác định tinh trùng sống ở những bệnh nhân đông lạnh tinh trùng từ tinh hoàn - Ngày đăng: 24-09-2024
Đông lạnh noãn chủ động: một đánh giá hệ thống và phân tích hồi quy tổng hợp - Ngày đăng: 20-09-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK