Tin tức
Tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi sau đông lạnh noãn tự thân không liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống
on Tuesday 13-08-2024 4:22am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phan Thị Ngọc Linh – IVFMD TÂN BÌNH
Đông lạnh noãn tự thân là một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản phổ biến và hiệu quả, cho phép phụ nữ có thể trì hoãn sinh con mà vẫn giữ được cơ hội có con di truyền của mình trong tương lai. Các nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ phôi bình thường và tỷ lệ mang thai từ noãn đông lạnh tương đương với noãn tươi. Hơn nữa, một nghiên cứu gần đây về bệnh nhân đông lạnh noãn ở độ tuổi trung bình 38 tuổi và sau đó quay lại rã đông noãn trong vòng 4 năm sau đó đã báo cáo tỷ lệ trẻ sinh sống là 39% - tương đương với dữ liệu IVF cùng độ tuổi từ cơ sở dữ liệu quốc gia SART. Đáng chú ý, nghiên cứu này báo cáo tỷ lệ sinh sống là 70% ở những bệnh nhân đông lạnh noãn ở độ tuổi dưới 38 (ít nhất 20 trứng giai đoạn MII), không có mối liên quan giữa thời gian bảo quản và tỷ lệ trẻ sinh sống từ noãn đông lạnh.
Khái niệm bảo tồn khả năng sinh sản và đông lạnh noãn dựa trên ý tưởng rằng tuổi của noãn được giữ nguyên ở thời điểm lấy trứng và giả định rằng tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi không ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống. Tuy nhiên, có những tranh cãi từ các chu kỳ chuyển phôi hiến tặng cho thấy tác động của lão hóa tử cung đối với kết quả chu kỳ. Các nghiên cứu này báo cáo rằng, khả năng hỗ trợ quá trình làm tổ và phát triển của phôi ở tử cung giảm dần và cho thấy khả năng tiếp nhận của tử cung liên quan đến tuổi tác. Các nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ sinh sống thấp hơn sau chuyển phôi bình thường ở phụ nữ trên 35 tuổi và tỷ lệ mang thai giảm ở người nhận noãn hiến tặng trên 40 tuổi. Tuy nhiên, các báo cáo khác lại không tìm thấy mối liên quan giữa tuổi mẹ và khả năng tiếp nhận của tử cung. Các nghiên cứu chức năng đã báo cáo những thay đổi về chức năng tử cung ở phụ nữ lớn tuổi, một số trong số đó liên quan đến những thay đổi về sức khỏe của bệnh nhân cũng xảy ra theo tuổi và có liên quan đến nhóm bệnh nhân trì hoãn mang thai. Mặc dù nghiên cứu đã tìm cách hiểu tác động của khả năng tiếp nhận tử cung liên quan đến tuổi tác bằng cách đánh giá bệnh nhân hiến tặng noãn và IVF, nhưng tác động của tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi sau đông lạnh noãn vẫn chưa được biết. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt quan trọng vì hầu hết phụ nữ thực hiện đông lạnh noãn dự định trì hoãn sinh con cho đến khi họ đạt đến độ tuổi cao. Liệu có mối quan hệ tiêu cực nào giữa khả năng tiếp nhận của tử cung và tuổi tác, thì tuổi chuyển phôi có thể ảnh hưởng đến bệnh nhân đông lạnh noãn hay không. Vì thế mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá xem tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi sau đông lạnh noãn có liên quan đến tỷ lệ sinh sống hay không.
Tiêu chí:
Tỉ lệ phôi tốt của nhóm đối chứng là 73% cao hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân sử dụng noãn rã 52% (p < 0,001). Kết quả chuyển phôi cũng có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm bệnh nhân. Tỉ lệ làm tổ (implantation rate – IR) và tỉ lệ trẻ sinh sống (live birth rate – LBR) của nhóm đối chứng lần lượt là 77% và 67%, cao hơn đáng kể so với nhóm sử dụng noãn rã là 66% và 59% (p < 0,05). Tỉ lệ sảy thai (spontaneous abortions rate – SABR) không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (p > 0,57).
Khi xét riêng nhóm bệnh nhân sử dụng noãn rã và phân chia theo 4 nhóm tuổi (< 40 tuổi, 40–42 tuổi, 42,1 đến 44 tuổi và ≥ 44 tuổi), kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào về IR (p = 0,18), SABR (p = 0,12) hoặc LBR (p = 0,24). Phân tích đơn biến so sánh độ tuổi lấy noãn (< 37 tuổi so với ≥ 37 tuổi) cũng cho thấy độ tuổi chuyển phôi không liên quan đến IR, SABR hoặc LBR trong bốn nhóm tuổi chuyển phôi.
Mặc dù tuổi tác không ảnh hưởng đến LBR, nhưng tuổi mẹ cao vẫn liên quan đến nhiều rủi ro trong thai kỳ. Phụ nữ nên được tư vấn về những rủi ro này và có thể cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa sản trước khi chuyển phôi ở độ tuổi từ 45 trở lên. Nghiên cứu này có những hạn chế như số lượng mẫu nhỏ, thiết kế hồi cứu và thời gian nghiên cứu dài. Cần thêm nghiên cứu với mẫu lớn hơn để xác định rõ hơn ảnh hưởng của tuổi tác đến tỷ lệ sinh sống tích lũy.
TLTK: Barrett, F.G., Cascante, S.D., McCulloh, D. et al. Maternal age at transfer following autologous oocyte cryopreservation is not associated with live birth rates. J Assist Reprod Genet (2024). https://doi.org/10.1007/s10815-024-03149-y
- Giới thiệu:
Đông lạnh noãn tự thân là một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản phổ biến và hiệu quả, cho phép phụ nữ có thể trì hoãn sinh con mà vẫn giữ được cơ hội có con di truyền của mình trong tương lai. Các nghiên cứu trước đây cho thấy tỷ lệ phôi bình thường và tỷ lệ mang thai từ noãn đông lạnh tương đương với noãn tươi. Hơn nữa, một nghiên cứu gần đây về bệnh nhân đông lạnh noãn ở độ tuổi trung bình 38 tuổi và sau đó quay lại rã đông noãn trong vòng 4 năm sau đó đã báo cáo tỷ lệ trẻ sinh sống là 39% - tương đương với dữ liệu IVF cùng độ tuổi từ cơ sở dữ liệu quốc gia SART. Đáng chú ý, nghiên cứu này báo cáo tỷ lệ sinh sống là 70% ở những bệnh nhân đông lạnh noãn ở độ tuổi dưới 38 (ít nhất 20 trứng giai đoạn MII), không có mối liên quan giữa thời gian bảo quản và tỷ lệ trẻ sinh sống từ noãn đông lạnh.
Khái niệm bảo tồn khả năng sinh sản và đông lạnh noãn dựa trên ý tưởng rằng tuổi của noãn được giữ nguyên ở thời điểm lấy trứng và giả định rằng tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi không ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống. Tuy nhiên, có những tranh cãi từ các chu kỳ chuyển phôi hiến tặng cho thấy tác động của lão hóa tử cung đối với kết quả chu kỳ. Các nghiên cứu này báo cáo rằng, khả năng hỗ trợ quá trình làm tổ và phát triển của phôi ở tử cung giảm dần và cho thấy khả năng tiếp nhận của tử cung liên quan đến tuổi tác. Các nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ sinh sống thấp hơn sau chuyển phôi bình thường ở phụ nữ trên 35 tuổi và tỷ lệ mang thai giảm ở người nhận noãn hiến tặng trên 40 tuổi. Tuy nhiên, các báo cáo khác lại không tìm thấy mối liên quan giữa tuổi mẹ và khả năng tiếp nhận của tử cung. Các nghiên cứu chức năng đã báo cáo những thay đổi về chức năng tử cung ở phụ nữ lớn tuổi, một số trong số đó liên quan đến những thay đổi về sức khỏe của bệnh nhân cũng xảy ra theo tuổi và có liên quan đến nhóm bệnh nhân trì hoãn mang thai. Mặc dù nghiên cứu đã tìm cách hiểu tác động của khả năng tiếp nhận tử cung liên quan đến tuổi tác bằng cách đánh giá bệnh nhân hiến tặng noãn và IVF, nhưng tác động của tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi sau đông lạnh noãn vẫn chưa được biết. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt quan trọng vì hầu hết phụ nữ thực hiện đông lạnh noãn dự định trì hoãn sinh con cho đến khi họ đạt đến độ tuổi cao. Liệu có mối quan hệ tiêu cực nào giữa khả năng tiếp nhận của tử cung và tuổi tác, thì tuổi chuyển phôi có thể ảnh hưởng đến bệnh nhân đông lạnh noãn hay không. Vì thế mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá xem tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi sau đông lạnh noãn có liên quan đến tỷ lệ sinh sống hay không.
- Phương pháp
Tiêu chí:
- Tiêu chuẩn loại:
- Noãn đông lạnh dưới 1 năm
- Phôi khảm, phôi lệch bội hoặc phôi chưa sinh thiết
- Noãn được bảo quản bằng phương pháp đông lạnh chậm
- Chuyển phôi tươi
- Kết quả:
Tỉ lệ phôi tốt của nhóm đối chứng là 73% cao hơn đáng kể so với nhóm bệnh nhân sử dụng noãn rã 52% (p < 0,001). Kết quả chuyển phôi cũng có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm bệnh nhân. Tỉ lệ làm tổ (implantation rate – IR) và tỉ lệ trẻ sinh sống (live birth rate – LBR) của nhóm đối chứng lần lượt là 77% và 67%, cao hơn đáng kể so với nhóm sử dụng noãn rã là 66% và 59% (p < 0,05). Tỉ lệ sảy thai (spontaneous abortions rate – SABR) không có sự khác biệt giữa 2 nhóm (p > 0,57).
Khi xét riêng nhóm bệnh nhân sử dụng noãn rã và phân chia theo 4 nhóm tuổi (< 40 tuổi, 40–42 tuổi, 42,1 đến 44 tuổi và ≥ 44 tuổi), kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào về IR (p = 0,18), SABR (p = 0,12) hoặc LBR (p = 0,24). Phân tích đơn biến so sánh độ tuổi lấy noãn (< 37 tuổi so với ≥ 37 tuổi) cũng cho thấy độ tuổi chuyển phôi không liên quan đến IR, SABR hoặc LBR trong bốn nhóm tuổi chuyển phôi.
- Thảo luận:
Mặc dù tuổi tác không ảnh hưởng đến LBR, nhưng tuổi mẹ cao vẫn liên quan đến nhiều rủi ro trong thai kỳ. Phụ nữ nên được tư vấn về những rủi ro này và có thể cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa sản trước khi chuyển phôi ở độ tuổi từ 45 trở lên. Nghiên cứu này có những hạn chế như số lượng mẫu nhỏ, thiết kế hồi cứu và thời gian nghiên cứu dài. Cần thêm nghiên cứu với mẫu lớn hơn để xác định rõ hơn ảnh hưởng của tuổi tác đến tỷ lệ sinh sống tích lũy.
- Kết luận:
TLTK: Barrett, F.G., Cascante, S.D., McCulloh, D. et al. Maternal age at transfer following autologous oocyte cryopreservation is not associated with live birth rates. J Assist Reprod Genet (2024). https://doi.org/10.1007/s10815-024-03149-y
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh hiệu quả chuyển phôi tươi của hai phác đồ: kích thích buồng trứng kép và kích thích buồng trứng một chu kỳ - Ngày đăng: 13-08-2024
Báo cáo trường hợp trẻ sinh sống từ noãn trưởng thành thu nhận trên mẫu buồng trứng được cắt bỏ của bệnh nhân mắc ung thư biểu mô buồng trứng - Ngày đăng: 13-08-2024
Ảnh hưởng của thời gian kiêng xuất tinh đến kết quả thụ tinh và kết quả lâm sàng trong chu kỳ ICSI: một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 13-08-2024
Ảnh hưởng của thời gian kiêng xuất tinh lên các thông số tinh trùng: một phân tích tổng hợp các nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 13-08-2024
Ảnh hưởng của số lần rửa phôi đến kết quả sàng lọc di truyền tiền làm tổ không xâm lấn (niPGT) - Ngày đăng: 13-08-2024
Ti thể - mục tiêu điều trị tiềm năng trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 13-08-2024
Chất chống oxy hóa và khả năng sinh sản ở phụ nữ lão hóa buồng trứng: Tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 13-08-2024
Phương pháp điều trị hiện tại cho tình trạng vô sinh ở nam giới: một tổng quan toàn diện từ các tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 13-08-2024
Ảnh hưởng của khoảng thời gian ngắn và dài từ khi thu nhận mẫu tinh dịch đến khi thực hiện IUI: một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 09-08-2024
Tăng bạch cầu trong tinh dịch không ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả tiêm tinh trùng vào bào tương noãn và xét nghiệm di truyền lệch bội tiền làm tổ: kết quả từ 5435 chu kỳ - Ngày đăng: 09-08-2024
Đánh giá những vấn đề cấu trúc khi áp dụng tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong đánh giá hình dạng tinh trùng - Ngày đăng: 05-08-2024
Mối liên quan giữa rối loạn giấc ngủ và vô sinh ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở Hoa Kỳ - Ngày đăng: 04-08-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK