Tin tức
on Thursday 07-03-2024 8:33pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS Trần Thiện Khiêm
Nhóm Nam khoa, đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD
Giới thiệu:
Hiện nay, với sự gia tăng của dân số thế giới cùng với tuổi thọ ngày càng cao, phơi nhiễm các yếu tố độc hại và các công cụ chẩn đoán mới mà tỷ lệ ung thư được phát hiện ngày càng nhiều. Cùng với đó các phương pháp điều trị hiện đại ra đời giúp nhiều loại ung thư có thể điều trị khỏi, tỷ lệ sống còn tăng và kỳ vọng sống của người bệnh cũng gia tăng qua các năm.
Nhiều bệnh nhân vẫn muốn có con sau khi điều trị ung thư, đặc biệt đối với nhóm trong độ tuổi sinh sản, ung thư tinh hoàn ảnh hương nhiều nhất đến nam giới và chiếm đến 17% các trường hợp được chẩn đoán. Ngoài ra còn có một số loại ung thư khác như ung thư đường tiêu hóa, cơ xương,… Điều trị chính cho các trường hợp này chủ yếu là hóa trị, xạ trị và thậm chí là cắt tinh hoàn đối với ung thư tinh hoàn, làm ảnh hưởng đáng kể đến chức năng sinh sản của người đàn ông và có thể mất vài tháng đến vài năm để hồi phục trở lại, thậm chí mất hoàn toàn khả năng sinh sản.
Hiện nay cách duy nhất để bảo tồn chức năng sinh sản là đông lạnh tinh trùng trước điều trị. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng mẫu tinh trùng trữ hiện này vẫn còn thấp, nguyên nhân có thể do bệnh nhân qua đời, hồi phục khả năng sinh sản hoặc không muốn có con nữa. Mặc dù vậy một vài nghiên cứu cho thấy, kết quả điều trị điều trị tương đương khi sử dụng mẫu tinh trùng trữ giữa nhóm có và không có ung thư.
Câu hỏi nghiên cứu:
Loại ung thư và phương pháp điều trị ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng tinh trùng và sức khỏe sinh sản của người bệnh? Bên cạnh đó, tỷ lệ người bệnh sử dụng tinh trùng trữ sau điều trị ung thư là bao nhiêu?
Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu hồi cứu những bệnh nhân trữ tinh trùng do ung thư từ năm 2000 đến 2022 tại IVI Tây Ban Nha sẽ được hồi cứu lại, các mẫu trữ gồm mẫu tinh trùng khi xuất tinh hoặc mẫu tinh trùng có được từ phẫu thuật trích tinh trùng đối với các trường hợp vô tinh. Các thông số tinh dịch được phân tích trước và sau điều trị. Tỷ lệ mẫu được sử dụng và tiêu hủy cũng được ghi nhận lại. Tổng số lượng tinh trùng di động (TMSC) được dùng để quyết định phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Kết quả:
Có 724 bệnh nhân ung thư được trữ tinh trùng trong nghiên cứu. Trong đó gồm ung thư tinh hoàn (36.05%), Hodgkin’s lymphoma (7.3%), ung thư đường tiêu hóa (5.9%) và các loại ung thư khác (50.75%). Các trường hợp ung thư có thể được điều trị bằng hóa trị (47.7%), xạ trị (5.9%) và phẫu thuật (39.4%).
Kết quả tinh dịch đồ trước và sau điều trị không đồng nhất với nhau, với sự khác biệt đáng kể giữa các loại ung thư và các chỉ số tinh dịch. Mật độ tinh trùng giảm nhiều nhất trong ung thư tinh hoàn, ung thư nội tiết và non-Hodgkin’s lymphoma. Tỷ lệ tinh trùng di động thấp nhất trong nhóm ung thư tuyến tiền liệt. Hình thái tinh trùng thấp ở nhóm Hodgkin’s và non-Hodgkin’s lymphoma, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư đường tiết niệu (<4%). TMSC thấp nhất ở nhóm ung thư tinh hoàn (22.4%), ung thư tuyến tiền liệt (25%), non-Hodgkin’s lymphoma (25.5%).
Tỷ lệ sử dụng mẫu tinh trùng trữ lạnh rất thấp (0.4%) trong khi đó tỷ lệ hủy mẫu là 20%.
Hạn chế:
Cỡ mẫu không nhiều ở mỗi nhóm ung thư, mỗi loại ung thư đều có nhiều giai đoạn và tương ứng với nhiều phác đồ điều trị khác nhau do đó khó đánh giá chính xác được tác động của ung thư và phương pháp điều trị lên chức năng sinh sản của người bệnh.
Tỷ lệ sử dụng mẫu thấp, do đó không đánh giá chính xác được vai trò của trữ đông tinh trùng đối với hỗ trợ sinh sản ở những bệnh nhân có bệnh lý ác tính.
Kết luận:
Ung thư và các phương pháp điều trị ung thư ảnh hưởng đến chức năng sinh sản rất khác nhau, do đó vấn đề trữ tinh trùng nên được đặt ra cho tất cả bệnh nhân trước khi điều trị nhằm đảm bảo khả năng sinh sản của họ trong tương lai. Bên cạnh đó, ngoài việc đánh giá mẫu tinh dịch theo các tiêu chuẩn của WHO, thì số lượng tinh trùng di động cũng là một thông số quan trọng cho việc lựa chọn phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Nguồn: Santana-Plata, A., R. Rivera-Egea, and N. Garrido, Semen cryopreservation for an oncological reason: a retrospective study. Reproductive BioMedicine Online. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2024.103898
Nhóm Nam khoa, đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD
Giới thiệu:
Hiện nay, với sự gia tăng của dân số thế giới cùng với tuổi thọ ngày càng cao, phơi nhiễm các yếu tố độc hại và các công cụ chẩn đoán mới mà tỷ lệ ung thư được phát hiện ngày càng nhiều. Cùng với đó các phương pháp điều trị hiện đại ra đời giúp nhiều loại ung thư có thể điều trị khỏi, tỷ lệ sống còn tăng và kỳ vọng sống của người bệnh cũng gia tăng qua các năm.
Nhiều bệnh nhân vẫn muốn có con sau khi điều trị ung thư, đặc biệt đối với nhóm trong độ tuổi sinh sản, ung thư tinh hoàn ảnh hương nhiều nhất đến nam giới và chiếm đến 17% các trường hợp được chẩn đoán. Ngoài ra còn có một số loại ung thư khác như ung thư đường tiêu hóa, cơ xương,… Điều trị chính cho các trường hợp này chủ yếu là hóa trị, xạ trị và thậm chí là cắt tinh hoàn đối với ung thư tinh hoàn, làm ảnh hưởng đáng kể đến chức năng sinh sản của người đàn ông và có thể mất vài tháng đến vài năm để hồi phục trở lại, thậm chí mất hoàn toàn khả năng sinh sản.
Hiện nay cách duy nhất để bảo tồn chức năng sinh sản là đông lạnh tinh trùng trước điều trị. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng mẫu tinh trùng trữ hiện này vẫn còn thấp, nguyên nhân có thể do bệnh nhân qua đời, hồi phục khả năng sinh sản hoặc không muốn có con nữa. Mặc dù vậy một vài nghiên cứu cho thấy, kết quả điều trị điều trị tương đương khi sử dụng mẫu tinh trùng trữ giữa nhóm có và không có ung thư.
Câu hỏi nghiên cứu:
Loại ung thư và phương pháp điều trị ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng tinh trùng và sức khỏe sinh sản của người bệnh? Bên cạnh đó, tỷ lệ người bệnh sử dụng tinh trùng trữ sau điều trị ung thư là bao nhiêu?
Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu hồi cứu những bệnh nhân trữ tinh trùng do ung thư từ năm 2000 đến 2022 tại IVI Tây Ban Nha sẽ được hồi cứu lại, các mẫu trữ gồm mẫu tinh trùng khi xuất tinh hoặc mẫu tinh trùng có được từ phẫu thuật trích tinh trùng đối với các trường hợp vô tinh. Các thông số tinh dịch được phân tích trước và sau điều trị. Tỷ lệ mẫu được sử dụng và tiêu hủy cũng được ghi nhận lại. Tổng số lượng tinh trùng di động (TMSC) được dùng để quyết định phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Kết quả:
Có 724 bệnh nhân ung thư được trữ tinh trùng trong nghiên cứu. Trong đó gồm ung thư tinh hoàn (36.05%), Hodgkin’s lymphoma (7.3%), ung thư đường tiêu hóa (5.9%) và các loại ung thư khác (50.75%). Các trường hợp ung thư có thể được điều trị bằng hóa trị (47.7%), xạ trị (5.9%) và phẫu thuật (39.4%).
Kết quả tinh dịch đồ trước và sau điều trị không đồng nhất với nhau, với sự khác biệt đáng kể giữa các loại ung thư và các chỉ số tinh dịch. Mật độ tinh trùng giảm nhiều nhất trong ung thư tinh hoàn, ung thư nội tiết và non-Hodgkin’s lymphoma. Tỷ lệ tinh trùng di động thấp nhất trong nhóm ung thư tuyến tiền liệt. Hình thái tinh trùng thấp ở nhóm Hodgkin’s và non-Hodgkin’s lymphoma, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư đường tiết niệu (<4%). TMSC thấp nhất ở nhóm ung thư tinh hoàn (22.4%), ung thư tuyến tiền liệt (25%), non-Hodgkin’s lymphoma (25.5%).
Tỷ lệ sử dụng mẫu tinh trùng trữ lạnh rất thấp (0.4%) trong khi đó tỷ lệ hủy mẫu là 20%.
Hạn chế:
Cỡ mẫu không nhiều ở mỗi nhóm ung thư, mỗi loại ung thư đều có nhiều giai đoạn và tương ứng với nhiều phác đồ điều trị khác nhau do đó khó đánh giá chính xác được tác động của ung thư và phương pháp điều trị lên chức năng sinh sản của người bệnh.
Tỷ lệ sử dụng mẫu thấp, do đó không đánh giá chính xác được vai trò của trữ đông tinh trùng đối với hỗ trợ sinh sản ở những bệnh nhân có bệnh lý ác tính.
Kết luận:
Ung thư và các phương pháp điều trị ung thư ảnh hưởng đến chức năng sinh sản rất khác nhau, do đó vấn đề trữ tinh trùng nên được đặt ra cho tất cả bệnh nhân trước khi điều trị nhằm đảm bảo khả năng sinh sản của họ trong tương lai. Bên cạnh đó, ngoài việc đánh giá mẫu tinh dịch theo các tiêu chuẩn của WHO, thì số lượng tinh trùng di động cũng là một thông số quan trọng cho việc lựa chọn phương pháp hỗ trợ sinh sản.
Nguồn: Santana-Plata, A., R. Rivera-Egea, and N. Garrido, Semen cryopreservation for an oncological reason: a retrospective study. Reproductive BioMedicine Online. https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2024.103898
Các tin khác cùng chuyên mục:
Độ dày nội mạc tử cung tối ưu trong các chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ thụ tinh trong ống nghiệm: Một phân tích tỷ lệ trẻ sinh sinh sống từ 96.000 chu kỳ chuyển phôi tự thân - Ngày đăng: 07-03-2024
Báo cáo đầu tiên về in 3D sinh học tế bào tinh hoàn người in vitro - Ngày đăng: 05-03-2024
Lạc nội mạc tử cung, chất lượng noãn và phôi - Ngày đăng: 05-03-2024
Phân tích chuyển hóa của exosome cho thấy những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong dịch nang buồng trứng - Ngày đăng: 05-03-2024
Mối liên quan giữa thời gian nuôi cấy phôi với nguy cơ trẻ sinh ra lớn so với tuổi thai (LGA) trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 05-03-2024
Hệ thống nuôi cấy phôi time-lapse được làm ẩm không cải thiện tỷ lệ thai diễn tiến: Một nghiên cứu hồi cứu áp dụng mô hình điểm xu hướng từ 496 chu kỳ ICSI điều trị lần đầu - Ngày đăng: 02-03-2024
Lệch bội ở noãn phụ nữ lớn tuổi: phân tích các nguyên nhân gây sai lệch trong giảm phân và sự tác động đến phát triển phôi - Ngày đăng: 27-02-2024
Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm khuẩn của catheter với kết quả thai kỳ sau chuyển phôi - Ngày đăng: 21-02-2024
Lạc nội mạc tử cung chẩn đoán dưới siêu âm có liên quan đến tỉ lệ trẻ sinh sống thấp ở phụ nữ điều trị thụ tinh trong ống nghiệm lần đầu tiên - Ngày đăng: 21-02-2024
Đánh giá mối quan hệ giữa đột biến dòng mầm và dị tật tim bẩm sinh ở trẻ em sinh ra từ công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 20-02-2024
Chất lượng không khí không tốt thứ phát sau cháy rừng liên quan đến tỉ lệ tạo phôi nang thấp - Ngày đăng: 20-02-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK