Tin tức
						 on Tuesday 24-10-2023 2:56pm
							
							Danh mục: Tin quốc tế
							
							
								CNSH. Nông Thị Hoài
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
 
Béo phì là một căn bệnh mãn tính có tỷ lệ mắc ngày càng tăng trên toàn thế giới, gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh sản của phụ nữ. So với phụ nữ có cân nặng bình thường, phụ nữ thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ vô sinh, sẩy thai, tiền sản giật, đái tháo đường thai kỳ và các biến chứng sản khoa hoặc liên quan đến thai kỳ khác cao hơn. Phụ nữ béo phì có nhiều khả năng bị rối loạn chức năng rụng trứng, rối loạn trục hạ đồi-tuyến yên-buồng trứng và bất thường về chất lượng noãn. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy béo phì ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng trong IVF. Béo phì thường được xác định dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI), theo Tổ chức Y tế Thế giới, cân nặng bình thường được xác định là 18,5 ≤ BMI ≤ 24,99 kg/m2, thừa cân là 25 ≤ BMI ≤ 29,9 kg/m2 và béo phì là BMI ≥ 30 kg/m2. Tuổi được công nhận là yếu tố tiên lượng tiêu cực đối với kết quả IVF. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tác động của BMI đến kết quả mang thai IVF dựa trên nhóm tuổi của bệnh nhân.
 
Nghiên cứu hồi cứu này thực hiện tổng cộng 2311 chu kỳ từ 986 phụ nữ trải qua chu kỳ IVF/ ICSI đầu tiên với chuyển phôi tươi/đông lạnh. Các đặc điểm chu kỳ và kết quả IVF/ICSI (số lượng noãn thu được, noãn trưởng thành, noãn thụ tinh, số lần phân tách, phôi hữu dụng và phôi chất lượng cao; tỷ lệ làm tổ; tỷ lệ có thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống) được so sánh giữa các bệnh nhân có chỉ số BMI và độ tuổi khác nhau.
 
Tất cả phụ nữ đều trải qua một trong bốn phác đồ kích thích buồng trứng sau đây: (1) Phác đồ Flare-up; (2) phác đồ GnRH đối vận; (3) phác đồ dài; (4) phác đồ nhẹ sử dụng clomiphene citrate.
 
Chỉ số BMI được đo trước khi kích thích buồng trứng. Các bệnh nhân được chia thành bốn nhóm theo chỉ số BMI và thực hiện các chu kỳ điều trị tương ứng: nhẹ cân (BMI < 18,5 kg/m2, 78 chu kỳ), cân nặng bình thường (18,5 ≤ BMI < 24 kg/m2, 721 chu kỳ), thừa cân (24 ≤ BMI < 28 kg/m2, 147 chu kỳ) và béo phì (BMI ≥ 28 kg/m2, 40 chu kỳ). Tất cả dữ liệu thu được được phân thành ba nhóm dựa trên độ tuổi của bệnh nhân: <30 tuổi, 30–38 tuổi và > 38 tuổi.
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc điểm nhân khẩu học và điều trị của bệnh nhân được so sánh giữa các nhóm BMI không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về loại vô sinh, chẩn đoán ban đầu, tổng số chu kỳ IVF/ICSI và tổng số chu kỳ chuyển phôi tươi/đông lạnh. Sự khác biệt về tuổi tác giữa bốn nhóm có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng noãn thu được, số noãn trưởng thành và số phôi chất lượng cao giữa các nhóm thiếu cân, cân nặng bình thường, thừa cân và béo phì (P > 0,05). Nhóm béo phì có số ngày dùng thuốc Gonadotropin dài nhất trong số tất cả các nhóm (10,83±4,08; P < 0,05). So với các nhóm khác, nhóm béo phì có liều Gonadotropin cao nhất (29,11±18,94; P <0,05). Số lượng noãn thụ tinh cao nhất ở nhóm thiếu cân (6,23±4,60; P < 0,05). Số lượng phôi phân chia cũng cao nhất ở nhóm thiếu cân (6,11±4,49; P < 0,05). Ngoài ra, số lượng phôi hữu dụng ở nhóm thiếu cân cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có cân nặng bình thường và nhóm thừa cân (4,76±3,49; P < 0,05).
 
Nhóm cân nặng bình thường có tỷ lệ có thai lâm sàng (27,3%) và tỷ lệ làm tổ (18,1%) cao nhất, còn nhóm béo phì có tỷ lệ sẩy thai tự nhiên là 26,7%, và tỷ lệ sinh sống đạt 60% ở nhóm này. Điều này cho thấy rằng mặc dù bệnh nhân béo phì có thể mang thai nhờ sử dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản nhưng > 50% trong số họ có thể không sinh con được. Bệnh nhân nhẹ cân có tỷ lệ sinh sống là 88,5%, cao nhất trong bốn nhóm.
 
Để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả mang thai, nghiên cứu đã tiến hành phân tích đa yếu tố: kết quả mang thai được coi là biến phụ thuộc (thành công = 1, thất bại = 0) và các yếu tố có sự khác biệt đáng kể trong phân tích đơn biến (tuổi và BMI) được coi là các biến độc lập. Kết quả cho thấy tuổi tác và BMI đều là những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến kết quả thai kỳ (P < 0,05).
 
Để loại trừ ảnh hưởng của tuổi tác, bệnh nhân được chia thành ba nhóm nhỏ: < 30 tuổi, 30 ≤ tuổi ≤ 38 tuổi và > 38 tuổi. Tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn đáng kể ở phụ nữ từ 30–38 tuổi ở nhóm cân nặng bình thường so với nhóm thừa cân (P = 0,013; P = 0,033 và P = 0,020 tương ứng ).
Ngoài ra, tỷ lệ có thai lâm sàng cũng cao hơn đáng kể ở nhóm cân nặng bình thường so với nhóm béo phì ở phụ nữ ở độ tuổi 30–38 ( P= 0,036). Hơn nữa, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ có thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống giữa các nhóm khác.
 
Tóm lại, BMI ảnh hưởng lớn đến kết quả mang thai của phụ nữ thực hiện IVF/ICSI. Đánh giá BMI và can thiệp thích hợp (ví dụ như điều chỉnh chế độ ăn uống, tập thể dục và các phương pháp điều trị hỗ trợ y tế...) trước khi điều trị IVF/ICSI, đặc biệt ở phụ nữ từ 30–38 tuổi, có thể ảnh hưởng tích cực đến kết quả mang thai. Mặc dù kết quả mang thai của phụ nữ thiếu cân không thấp hơn so với phụ nữ có cân nặng bình thường nhưng BMI vẫn được coi là yếu tố ảnh hưởng tiềm tàng.
 
Nguồn: Liu D, Li L, Sun N, Zhang X, Yin P, Zhang W, Hu P, Yan H, Zhang Q. Effects of body mass index on IVF outcomes in different age groups. BMC Womens Health. 2023 Aug 9;23(1):416.
															
							
							
							
							
							Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Béo phì là một căn bệnh mãn tính có tỷ lệ mắc ngày càng tăng trên toàn thế giới, gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh sản của phụ nữ. So với phụ nữ có cân nặng bình thường, phụ nữ thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ vô sinh, sẩy thai, tiền sản giật, đái tháo đường thai kỳ và các biến chứng sản khoa hoặc liên quan đến thai kỳ khác cao hơn. Phụ nữ béo phì có nhiều khả năng bị rối loạn chức năng rụng trứng, rối loạn trục hạ đồi-tuyến yên-buồng trứng và bất thường về chất lượng noãn. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy béo phì ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng trong IVF. Béo phì thường được xác định dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI), theo Tổ chức Y tế Thế giới, cân nặng bình thường được xác định là 18,5 ≤ BMI ≤ 24,99 kg/m2, thừa cân là 25 ≤ BMI ≤ 29,9 kg/m2 và béo phì là BMI ≥ 30 kg/m2. Tuổi được công nhận là yếu tố tiên lượng tiêu cực đối với kết quả IVF. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tác động của BMI đến kết quả mang thai IVF dựa trên nhóm tuổi của bệnh nhân.
Nghiên cứu hồi cứu này thực hiện tổng cộng 2311 chu kỳ từ 986 phụ nữ trải qua chu kỳ IVF/ ICSI đầu tiên với chuyển phôi tươi/đông lạnh. Các đặc điểm chu kỳ và kết quả IVF/ICSI (số lượng noãn thu được, noãn trưởng thành, noãn thụ tinh, số lần phân tách, phôi hữu dụng và phôi chất lượng cao; tỷ lệ làm tổ; tỷ lệ có thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống) được so sánh giữa các bệnh nhân có chỉ số BMI và độ tuổi khác nhau.
Tất cả phụ nữ đều trải qua một trong bốn phác đồ kích thích buồng trứng sau đây: (1) Phác đồ Flare-up; (2) phác đồ GnRH đối vận; (3) phác đồ dài; (4) phác đồ nhẹ sử dụng clomiphene citrate.
Chỉ số BMI được đo trước khi kích thích buồng trứng. Các bệnh nhân được chia thành bốn nhóm theo chỉ số BMI và thực hiện các chu kỳ điều trị tương ứng: nhẹ cân (BMI < 18,5 kg/m2, 78 chu kỳ), cân nặng bình thường (18,5 ≤ BMI < 24 kg/m2, 721 chu kỳ), thừa cân (24 ≤ BMI < 28 kg/m2, 147 chu kỳ) và béo phì (BMI ≥ 28 kg/m2, 40 chu kỳ). Tất cả dữ liệu thu được được phân thành ba nhóm dựa trên độ tuổi của bệnh nhân: <30 tuổi, 30–38 tuổi và > 38 tuổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc điểm nhân khẩu học và điều trị của bệnh nhân được so sánh giữa các nhóm BMI không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về loại vô sinh, chẩn đoán ban đầu, tổng số chu kỳ IVF/ICSI và tổng số chu kỳ chuyển phôi tươi/đông lạnh. Sự khác biệt về tuổi tác giữa bốn nhóm có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng noãn thu được, số noãn trưởng thành và số phôi chất lượng cao giữa các nhóm thiếu cân, cân nặng bình thường, thừa cân và béo phì (P > 0,05). Nhóm béo phì có số ngày dùng thuốc Gonadotropin dài nhất trong số tất cả các nhóm (10,83±4,08; P < 0,05). So với các nhóm khác, nhóm béo phì có liều Gonadotropin cao nhất (29,11±18,94; P <0,05). Số lượng noãn thụ tinh cao nhất ở nhóm thiếu cân (6,23±4,60; P < 0,05). Số lượng phôi phân chia cũng cao nhất ở nhóm thiếu cân (6,11±4,49; P < 0,05). Ngoài ra, số lượng phôi hữu dụng ở nhóm thiếu cân cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm có cân nặng bình thường và nhóm thừa cân (4,76±3,49; P < 0,05).
Nhóm cân nặng bình thường có tỷ lệ có thai lâm sàng (27,3%) và tỷ lệ làm tổ (18,1%) cao nhất, còn nhóm béo phì có tỷ lệ sẩy thai tự nhiên là 26,7%, và tỷ lệ sinh sống đạt 60% ở nhóm này. Điều này cho thấy rằng mặc dù bệnh nhân béo phì có thể mang thai nhờ sử dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản nhưng > 50% trong số họ có thể không sinh con được. Bệnh nhân nhẹ cân có tỷ lệ sinh sống là 88,5%, cao nhất trong bốn nhóm.
Để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả mang thai, nghiên cứu đã tiến hành phân tích đa yếu tố: kết quả mang thai được coi là biến phụ thuộc (thành công = 1, thất bại = 0) và các yếu tố có sự khác biệt đáng kể trong phân tích đơn biến (tuổi và BMI) được coi là các biến độc lập. Kết quả cho thấy tuổi tác và BMI đều là những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến kết quả thai kỳ (P < 0,05).
Để loại trừ ảnh hưởng của tuổi tác, bệnh nhân được chia thành ba nhóm nhỏ: < 30 tuổi, 30 ≤ tuổi ≤ 38 tuổi và > 38 tuổi. Tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn đáng kể ở phụ nữ từ 30–38 tuổi ở nhóm cân nặng bình thường so với nhóm thừa cân (P = 0,013; P = 0,033 và P = 0,020 tương ứng ).
Ngoài ra, tỷ lệ có thai lâm sàng cũng cao hơn đáng kể ở nhóm cân nặng bình thường so với nhóm béo phì ở phụ nữ ở độ tuổi 30–38 ( P= 0,036). Hơn nữa, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ có thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống giữa các nhóm khác.
Tóm lại, BMI ảnh hưởng lớn đến kết quả mang thai của phụ nữ thực hiện IVF/ICSI. Đánh giá BMI và can thiệp thích hợp (ví dụ như điều chỉnh chế độ ăn uống, tập thể dục và các phương pháp điều trị hỗ trợ y tế...) trước khi điều trị IVF/ICSI, đặc biệt ở phụ nữ từ 30–38 tuổi, có thể ảnh hưởng tích cực đến kết quả mang thai. Mặc dù kết quả mang thai của phụ nữ thiếu cân không thấp hơn so với phụ nữ có cân nặng bình thường nhưng BMI vẫn được coi là yếu tố ảnh hưởng tiềm tàng.
Nguồn: Liu D, Li L, Sun N, Zhang X, Yin P, Zhang W, Hu P, Yan H, Zhang Q. Effects of body mass index on IVF outcomes in different age groups. BMC Womens Health. 2023 Aug 9;23(1):416.
Các tin khác cùng chuyên mục:
							 Nồng độ oxy hoá DNA, Protein, Lipid và dấu ấn sinh học về chu trình chết tế bào ở nhóm nam giới tinh dịch nhớt: Một nghiên cứu cắt ngang  - Ngày đăng: 14-10-2023
 Nồng độ oxy hoá DNA, Protein, Lipid và dấu ấn sinh học về chu trình chết tế bào ở nhóm nam giới tinh dịch nhớt: Một nghiên cứu cắt ngang  - Ngày đăng: 14-10-2023   Tác động khác nhau của các phương pháp chuẩn bị tinh trùng đến kết quả của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản  - Ngày đăng: 14-10-2023
 Tác động khác nhau của các phương pháp chuẩn bị tinh trùng đến kết quả của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản  - Ngày đăng: 14-10-2023   Trường hợp SDF < 15% giúp tiên lượng kết quả thai và trẻ sinh sống ở phụ nữ dưới 40 tuổi  - Ngày đăng: 12-10-2023
 Trường hợp SDF < 15% giúp tiên lượng kết quả thai và trẻ sinh sống ở phụ nữ dưới 40 tuổi  - Ngày đăng: 12-10-2023   Kết cục của phôi thụ tinh bất thường  - Ngày đăng: 04-10-2023
 Kết cục của phôi thụ tinh bất thường  - Ngày đăng: 04-10-2023   Liệu mùa khí tượng tại thời điểm lấy noãn có ảnh hưởng đến kết cục sau chuyển phôi trữ  - Ngày đăng: 04-10-2023
 Liệu mùa khí tượng tại thời điểm lấy noãn có ảnh hưởng đến kết cục sau chuyển phôi trữ  - Ngày đăng: 04-10-2023   Sự thay đổi của các thông số tinh dịch và khả năng sinh sản của nam giới trước và sau khi nhiễm COVID - 19  - Ngày đăng: 04-10-2023
 Sự thay đổi của các thông số tinh dịch và khả năng sinh sản của nam giới trước và sau khi nhiễm COVID - 19  - Ngày đăng: 04-10-2023   Ảnh hưởng của sự thay đổi quy trình nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) lên sự phát triển noãn-phôi  - Ngày đăng: 04-10-2023
 Ảnh hưởng của sự thay đổi quy trình nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) lên sự phát triển noãn-phôi  - Ngày đăng: 04-10-2023   Tầm quan trọng của nồng độ oxy trong nuôi cấy in vitro mô buồng trứng người   - Ngày đăng: 04-10-2023
 Tầm quan trọng của nồng độ oxy trong nuôi cấy in vitro mô buồng trứng người   - Ngày đăng: 04-10-2023   Ảnh hưởng của sáu phương pháp nhuộm đến kích thước tinh trùng người và đánh giá tác dụng nhuộm của chúng  - Ngày đăng: 04-10-2023
 Ảnh hưởng của sáu phương pháp nhuộm đến kích thước tinh trùng người và đánh giá tác dụng nhuộm của chúng  - Ngày đăng: 04-10-2023   Kết quả lâm sàng của các chiến lược chuyển phôi khác nhau sau thủ thuật rescue ICSI muộn– Một nghiên cứu đoàn hệ 10 năm trên các trường hợp thất bại thụ tinh hoàn toàn  - Ngày đăng: 04-10-2023
 Kết quả lâm sàng của các chiến lược chuyển phôi khác nhau sau thủ thuật rescue ICSI muộn– Một nghiên cứu đoàn hệ 10 năm trên các trường hợp thất bại thụ tinh hoàn toàn  - Ngày đăng: 04-10-2023   Phôi nén giai đoạn phân chia – một yếu tố tiên lượng tốt cho kết cục IVF  - Ngày đăng: 04-10-2023
 Phôi nén giai đoạn phân chia – một yếu tố tiên lượng tốt cho kết cục IVF  - Ngày đăng: 04-10-2023   Kết quả lâm sàng của bệnh nhân Cryptozoospermia thu nhận tinh trùng từ phẫu thuật  - Ngày đăng: 27-09-2023
 Kết quả lâm sàng của bệnh nhân Cryptozoospermia thu nhận tinh trùng từ phẫu thuật  - Ngày đăng: 27-09-2023  TIN CẬP NHẬT
							
													TIN CHUYÊN NGÀNH
							
						
							LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
															
 Năm  2020
									
									Thứ bảy ngày 22 . 11 . 2025 (9:30 - 12:00), khách sạn Equatorial (số ...
 Năm  2020
									
									New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026
 Năm  2020
									
									Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
																 
									Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...
 
									Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...
 
									Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...
FACEBOOK
								
								
								
								
						 
						 Liên hệ
									CONTACT
									Liên hệ
									CONTACT
								 Thư viện
									LIBRARY
									Thư viện
									LIBRARY
								 Báo cáo hội nghị
 Báo cáo hội nghị Hướng dẫn lâm sàng
 Hướng dẫn lâm sàng Y học sinh sản
 Y học sinh sản Tạp chí phụ sản
 Tạp chí phụ sản Sản phụ khoa từ bằng chứng đến thực hành
 Sản phụ khoa từ bằng chứng đến thực hành Các ấn phẩm khác
 Các ấn phẩm khác Tài liệu tham khảo chuyên ngành
 Tài liệu tham khảo chuyên ngành American Journal of Obstetrics and Gynecology
 American Journal of Obstetrics and Gynecology Obstetrics and Gynecology (green journal)
 Obstetrics and Gynecology (green journal) Hội viên
									 MEMBERSHIP
									Hội viên
									 MEMBERSHIP
								 Hội viên
 Hội viên Quyền lợi & nghĩa vụ
 Quyền lợi & nghĩa vụ Hướng dẫn đăng ký, gia hạn
 Hướng dẫn đăng ký, gia hạn Các thông tin khác
 Các thông tin khác Thông tin cho cộng tác viên
 Thông tin cho cộng tác viên Hướng dẫn đăng ký CTV
 Hướng dẫn đăng ký CTV Hoạt động
									ACTIVITY
									Hoạt động
									ACTIVITY
								 Hội nghị - Hội thảo
 Hội nghị - Hội thảo Khóa đào tạo
 Khóa đào tạo Thông tin
									INFORMATION
									Thông tin
									INFORMATION
								 Tin quốc tế
 Tin quốc tế Sản khoa & nhi sơ sinh
 Sản khoa & nhi sơ sinh Phụ khoa
 Phụ khoa Mãn kinh
 Mãn kinh Nam khoa
 Nam khoa Vô sinh & hỗ trợ sinh sản
 Vô sinh & hỗ trợ sinh sản Khác
 Khác Giới thiệu
									ABOUT US
									Giới thiệu
									ABOUT US
								 Lịch sử phát triển
 Lịch sử phát triển Sứ mệnh tầm nhìn
 Sứ mệnh tầm nhìn Trang chủ
									HOMEPAGE
									Trang chủ
									HOMEPAGE
								
 
             
             
             
             
             
             
             
            


