Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 04-10-2023 1:51pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
 

Sự thay đổi theo mùa về khả năng sinh sản và tỉ lệ sinh ở người đã được mô tả rõ ràng trên thế giới nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn chưa rõ ràng. Các yếu tố góp phần như tác động của môi trường đến chất lượng giao tử, tỉ lệ sẩy thai và tần suất giao hợp cùng với tác động xã hội và hành vi. Bằng chứng cho thấy tác động này không đơn thuần là hành vi hay xã hội học, với những biến đổi theo mùa được báo cáo ở những phụ nữ thụ tinh nhân tạo. Nhiều nhóm đã đánh giá biến đổi theo mùa ảnh hưởng đến thành công của ART, bao gồm cả IVF và ICSI. Vài nghiên cứu báo cáo ảnh hưởng của mùa khí tượng lên tỉ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate – CPR), trẻ sinh sống (live birth rate – LBR) và thai sinh hóa; song song đó thì một số nghiên cứu khác không mô tả được mối tương quan. Đối với chuyển phôi tươi, một nghiên cứu trước đó cho rằng nhiều giờ nắng hơn và ít ngày mưa hơn có liên quan đến sự tăng LBR ở Belgium. Tương tự, kết quả phôi học được cải thiện như tỉ lệ thụ tinh, chất lượng phôi vào những giờ nắng nhiều ở Israel và vào mùa thu ở Iran. Ngoài ra, CPR tăng nhưng không phải LBR khi thời tiết ấm hơn và vào mùa hè tại thời điểm IVF được đánh giá ở Trung Quốc, Hong Kong, Anh, Mỹ và Hà Lan; thế nhưng tỉ lệ này lại tăng vào mùa đông khi chuyển phôi tươi ở nước Áo và Hungary. Ngược lại, 6 nghiên cứu khác ở Anh, Ý, Trung Quốc, Ấn Độ, Thụy Điển và Thụy Sĩ không tìm thấy sự khác biệt trong tỉ lệ làm tổ, CPR và LBR. Gần đây, mối tương quan giữa mùa khí tượng và nhiệt độ ở thời điểm chọc hút noãn và tỉ lệ trẻ sinh sống sau chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer – FET) được báo cáo. Noãn được thu nhận trong mùa hè hoặc những ngày với nhiệt độ ấm dường như có liên quan đến kết quả CPR và LBR; trong khi nhiệt độ và mùa vào ngày chuyển phôi thì không ảnh hưởng. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá xem liệu mùa, nhiệt độ và số giờ mặt trời sáng chói (nắng) khi chọc hút thu nhận noãn (Ovum pick up – OPU) và khi chuyển phôi có liên quan đến việc cải thiện kết cục lâm sàng ở khu vực Nam bán cầu với các kiểu thời tiết có khác biệt đáng kể so với nghiên cứu trước đó không. Nghiên cứu này được thực hiện ở Perth, Tây Úc, nơi có khí hậu Địa trung hải.
 
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu của tất cả chu kỳ FET trên 1.835 bệnh nhân (2.155 chu kỳ IVF) ở 2 địa điểm của trung tâm từ đầu T1/2013 đến cuối T12/2021. Mỗi ngày trong nghiên cứu được phân loại bởi mùa khí tượng, mùa hè (T12-T2), mùa thu (T3-T5), mùa đông (T6-T8) hoặc mùa xuân (T9-T11). Các phân vị được tạo ra cho nhiệt độ trung bình, tối đa, tối thiểu và số giờ nắng tại thời điểm OPU. Giá trị ngưỡng cũng được áp dụng cho dữ liệu thời tiết ở thời điểm FET. Kết cục lâm sàng chính là LBR, CPR, thai sinh hóa, sẩy thai. Kết cục phụ là tỉ lệ thụ tinh và phôi nang hữu dụng.
 
Giá trị ngưỡng của các phân vị là:
-Nhiệt độ trung bình (℃): thấp (7,9–15,5); trung bình (15,6–20,9); cao (21,0–33,9)
-Nhiệt độ tối đa (℃): thấp (13,2–21,2); trung bình (21,3– 27,4); cao (27,5–43,3)
-Nhiệt độ tối thiểu (℃): thấp (0,1–9,8); trung bình (9,9–14,4); cao (14,5–27,8)
-Số giờ nắng: thấp (0–7,6); trung bình (7,7–10,6); cao (10,7–13,3)
 
Kết quả là trong 3.567 FET có 69,4% phôi nang N5 và 30,5% phôi nang N6. Mùa thu sẽ là mùa dùng để so sánh trong tất cả các phân tích với LBR thấp nhất khi OPU vào mùa thu.
-Ngày OPU vào mùa hè: LBR tăng 30% so với OPU vào mùa thu (OR:1,30; 95% CI:1,04-1,62; P=0,02).
-Ngày OPU có số giờ nắng cao (10,7-13,3h): LBR tăng 20% so với số giờ nắng thấp (0-7,6h) (OR:1,28; 95% CI: 1,06-1,53; P=0,008).
-Ngày FET có nhiệt độ tối thiểu cao (14,5-27,8℃): LBR giảm 18% so với nhiệt độ thấp (0,1-9,8℃) (OR:0,82; 95% CI: 0,69-0,99; P=0,040).
-FET vào mùa xuân: LBR thấp hơn FET vào mùa thu (OR:0,80; 95% CI: 0,64-0,98; P=0,035); nhưng kết quả này không nhất quán khi thời gian OPU được điều chỉnh biến đổi theo mùa.
-Nhiệt độ trung bình và số giờ nắng trong 14-28N trước OPU hoặc FET: LBR không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê.
-Tỉ lệ sẩy thai thấp nhất khi nhiệt độ trung bình hoặc nhiệt độ tối đa vào ngày OPU là phân vị trung bình so với phân vị thấp nhất (OR:0,70; 95% CI: 0,47-0,99; P<0,05). Ngược lại, tỉ lệ sẩy thai tăng đến 42% khi FET vào ngày có nhiệt độ tối đa trong phân vị đầu (27,5-43,3℃) so với phân vị thấp nhất (13,2-21,2℃) (OR:1,42; 95% CI: 1,02-1,98; P=0,039).
-Không có sự khác biệt ở số lượng noãn hoặc tỉ lệ phôi nang hữu dụng trên mỗi chu kỳ IVF cũng như CPR và LBR dựa trên mùa, số giờ nắng hay nhiệt độ trung bình vào ngày FET hoặc ngày OPU.
-Tỉ lệ thụ tinh tăng có tương quan với số giờ nắng trung bình 14N trong phân vị cao nhất (10,7-13,3h) so với thấp nhất (0-7,6h) (IRR:1,04; 95% CI:1,00-1,07; P=0,048).
 
Từ phân tích dữ liệu của nghiên cứu đã chứng minh được điều kiện mùa và thời tiết vào ngày OPU ảnh hưởng LBR ở bệnh nhân FET, thích hợp vào mùa hè và nhiều giờ nắng. Melatonin được cho là một chất trung gian tích cực cho sự trưởng thành và khả năng của noãn thông qua các hoạt động chống oxy hóa, tự tiết và cận tiết nhưng việc sản xuất melatonin trong các tế bào granulosa và bản thân noãn liệu có tuân theo cùng một biến đổi theo mùa vẫn chưa chắc chắn. Ở Úc, mức độ 25(OH)D là tương đương vào mùa hè và mùa thu trước khi giảm vào mùa đông nhưng bài tổng quan hệ thống gần đây cho thấy Vitamin D không có ảnh hưởng đáng kể đến LBR. Một lý do khả thi là sự khác biệt trong sinh hoạt, chế độ ăn và lối sống trong mỗi mùa có thể làm thay đổi LBR; các yếu tố môi trường khác như chất ô nhiễm (NO2; SO2; CO) cũng có thể ảnh hưởng kết cục lâm sàng. 
 
Tóm lại, đây là nghiên cứu đầu tiên phân tích FET bằng cách sử dụng số giờ nắng được đo thực tế và mùa khí tượng ở Nam bán cầu. Điều kiện tối ưu với trẻ sinh sống dường như có liên quan chặt chẽ với mùa hè và số giờ nắng tăng lên hơn là nhiệt độ trung bình vào ngày OPU. Ngược lại, nhiệt độ tối thiểu cao vào ngày FET lại giảm số trẻ sinh sống. Do đó, các yếu tố môi trường khác cũng như sinh lý cơ bản cần được nghiên cứu thêm. 
 
Nguồn: Leathersich S.J, Roche C.S, Walls M, Nathan E và Hart R.J. Season at the time of oocyte collection and frozen embryo transfer outcomes. 2023 Jul 12.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK