Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 23-10-2019 7:49pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Hữu Duy – IVFVH


Để có thể sử dụng ICSI, noãn phải ở trạng thái trưởng thành (MII). Sự trưởng thành noãn bao gồm hai quá trình chính: (1) sự trưởng thành về nhân, thể hiện qua việc xuất hiện thể cực thứ nhất; (2) sự trưởng thành về tế bào chất, quá trình này rất phức tạp và không thể nhận biết được qua hình thái bên ngoài của noãn. Để noãn có thể thụ tinh và phát triển bình thường, cần có sự trưởng thành cả về nhân và tế bào chất. Người ta ghi nhận ở những trường hợp có số lượng noãn MII và chất lượng tinh trùng bình thường nhưng có kết quả thụ tinh kém, việc điều chỉnh phác đồ kích thích buồng trứng trong chu kỳ tiếp theo để cho phép thời gian trưởng thành in-vivo và in vitro lâu hơn với sự hiện diện của các tế bào cumulus/corona đã mang lại tỷ lệ thụ tinh cao hơn, do đó chứng tỏ sự trưởng thành tế bào chất đóng một vai trò quan trọng trong khả năng phát triển của noãn. Trên cơ sở đó, Alessandra và cộng sự (2019) đã tiến hành nghiên cứu nhằm xác định liệu noãn MII thuộc các đoàn hệ noãn có các giai đoạn trưởng thành nhân khác nhau (MI, GV) có cho thấy khả năng phát triển không đồng nhất hay không trên cơ sở giả định là đã có sự trưởng thành tế bào chất. Để kiểm tra điều này, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ làm tổ của noãn MII sau ICSI được đánh giá trong mối tương quan với tỷ lệ các noãn thể hiện sự trưởng thành nhân (MII) trong đoàn hệ noãn chọc hút.

Thiết kế nghiên cứu: Các ca ICSI từ năm 1993 đến năm 2017 với tuổi vợ ≤35 tuổi được nhận vào nghiên cứu. Các chu kỳ điều trị được chia thành bốn nhóm dựa theo tỷ lệ noãn MII tại thời điểm tách noãn: tối ưu (76-100%), đủ (51-75%), một phần (26-50%) và tối thiểu (1-25%).

Kết quả: Tổng cộng có 7672 chu kỳ ICSI với số lượng noãn MII trong 4 nhóm lần lượt là tối ưu: 4838; đủ: 2252; một phần: 518; tối thiểu: 64. Tỷ lệ MII trong đoàn hệ giảm làm giảm đáng kể tỷ lệ thụ tinh bình thường (2PN) (78,9% xuống 71,3%; P <0,0001) và tăng tỷ lệ thụ tinh bất thường (chủ yếu 3PN) từ 2,6% trong nhóm tối ưu lên 4,7% trong nhóm tối thiểu (P = 0,003). Tỷ lệ làm tổ (33% giảm xuống 17%; P <0,0001), thai lâm sàng (63,6% giảm xuống 37,5%; P <0,0001) và tỷ lệ sinh sống (49,2% giảm xuống 26,6%; P <0,0001) bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ noãn MII giảm.

Kết luận: Tỷ lệ cao noãn chưa trưởng thành trong đoàn hệ noãn thu được ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ tinh và khả năng tạo phôi của các noãn MII, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống, qua đó cho thấy, bên cạnh sự trưởng thành nhân, sự trưởng thành về tế bào chất cũng đóng vai trò rất quan trọng cho khả năng phát triển của noãn MII. Các kết quả nghiên cứu này có thể cung cấp thêm thông tin trong việc sử dụng các phác đồ kích thích buồng trứng nhằm đạt được tỷ lệ noãn MII nhiều hơn, dẫn đến tỷ lệ thụ tinh cao hơn và kết quả thai tốt hơn.

Nguồn: High proportion of immature oocytes in a cohort reduces fertilization, embryo development, pregnancy and live birth rates following ICSI. Parrella, Alessandra et al. Reproductive BioMedicine Online, Volume 39, October 2019, Issue 4, 580 – 587.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK