Tin tức
on Monday 14-10-2019 9:05am
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My
Hiện nay, có khoảng gần 60% thai kỳ song thai sinh non trước 37 tuần. Đối với thai kỳ đơn thai, khâu cổ tử cung (CTC) có thể cải thiện tỷ lệ sinh sớm nhưng hiệu quả của phương pháp dự phòng này trên thai kỳ song thai vẫn còn nhiều tranh cãi. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy khâu CTC không giúp cải thiện kết cục thai nhi. Tuy nhiên, vai trò của các phương pháp dự phòng vẫn được tiếp tục nghiên cứu trên các nhóm đối tượng khác nhau nhằm xác định phương pháp dự phòng thích hợp.
Một nghiên cứu đoàn hệ vừa công bố kết quả, đánh giá hiệu quả của khâu CTC trên nhóm thai kỳ song thai có tiền sử sinh non. Tổng cộng có 82 thai phụ mang song thai, 41 trường hợp được khâu CTC vào thời điểm siêu âm độ mờ da gáy và 41 trường hợp theo dõi không can thiệp bắt cặp tương đồng về tuổi mẹ, số lần sinh non trong khoảng 20-36 tuần trong tiền sử.
Kết quả phân tích cho thấy:
- Tuổi thai lúc sinh trung bình ở nhóm khâu CTC lớn hơn nhóm không can thiệp (trung bình 35 tuần so với 30 tuần; P < 0.0001)
- Tỷ lệ sinh non trước 24 tuần, 28 tuần, 32 tuần và 34 tuần ở nhóm khâu CTC cũng thấp hơn nhóm không can thiệp, với tỷ lệ lần lượt ở mỗi nhóm là: 2.4% so với 19.5%; OR 0.10 (95% CI, 0.01–0.87), P = 0.03; 12.2% so với 34.1%; OR 0.27 (95% CI, 0.09–0.84), P = 0.03; 22.0% so với 56.1%; OR 0.22 (95% CI, 0.08–0.58), P = 0.003 và 34.1% so với 82.9%; OR 0.11 (95% CI, 0.04–0.30), P < 0.0001.
- Tỷ lệ sinh sống ở nhóm khâu CTC cao hơn đáng kể so với nhóm không can thiệp (97.6% so với 80.5%; OR, 9.7 (95% CI, 2.15–43.71); P = 0.001)
- Tỷ lệ thai chết lưu, nhập đơn vị săn sóc tích cực sơ sinh, suy hô hấp cấp, xuất huyết não thất, nhiễm trùng, hoại tử ruột, … ở nhóm khâu CTC cũng có tỷ lệ thấp hơn so với theo dõi không can thiệp.
Nghiên cứu kết luận kết quả phân tích được cho thấy khâu CTC ở nhóm bệnh nhân song thai tiền sử sinh non có thể có hiệu quả tích cực, có thể cải thiện kết cục thai kỳ và dự hậu của trẻ. Thông tin này có thể dùng hỗ trợ tư vấn cho bệnh nhân, tuy nhiên chỉ định điều trị vẫn dựa trên từng cá thể. Hy vọng các nghiên cứu có thiết kế tốt hơn sẽ được tiến hành nhằm khẳng định kết quả này.
Lược dịch từ: History‐indicated cervical cerclage in management of twin pregnancy – ISUOG Oct 2019. https://doi.org/10.1002/uog.20192
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các cặp Microrna tinh trùng: những quan điểm mới trong việc tìm kiếm các dấu ấn sinh học sinh sản nam - Ngày đăng: 14-10-2019
Một khía cạnh trong Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) – Vấn đề trầm cảm/ lo âu: Body-image - Ngày đăng: 14-10-2019
Tương quan giữa sắt, canxi và stress oxy hóa với chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 06-11-2019
Vai trò của đậu nành với sức khỏe sinh sản - Ngày đăng: 08-10-2019
Chiến lược chuyển phôi nang đông lạnh ở phụ nữ hơn 35 tuổi - Ngày đăng: 08-10-2019
Chế độ ăn phương tây có phá hoại những nỗ lực của chúng ta trong việc kiểm soát hội chứng buồng trứng đa nang? - Ngày đăng: 08-10-2019
Đánh giá chiều dài kênh cổ tử cung trên thai kỳ song thai doạ sinh non - Ngày đăng: 08-10-2019
Hiệu quả trữ lạnh tinh trùng với môi trường trữ lạnh - Ngày đăng: 08-10-2019
Dấu hiệu xuất huyết trên siêu âm ba tháng đầu và những nguy cơ bất lợi cho thai - Ngày đăng: 08-10-2019
Dự đoán tiền đái tháo đường và đái tháo đường thai kỳ trong 5 năm hậu sản bằng nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống - Ngày đăng: 08-10-2019
Chiều dài kênh cổ tử cung và định lượng FETAL FIBRONECTIN trong dự đoán sinh non ở nhóm bệnh nhân bất thường tử cung bẩm sinh - Ngày đăng: 08-10-2019
Xét nghiệm di truyền phôi xâm lấn tối thiểu sử dụng môi trường nuôi cấy phôi nang - Ngày đăng: 08-10-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK