Tin tức
on Tuesday 08-10-2019 3:10pm
Danh mục: Tin quốc tế
Đái tháo đường thai kỳ (GMD – gestational mellitus diabetes) được định nghĩa là hiện tượng không dung nạp glucose được phát hiện lần đầu khi mang thai. Đây là tình trạng ảnh hưởng đến khoảng 4-18% thai kỳ. Nguyên nhân là do sự mất cân bằng giữa việc sản xuất và đề kháng insulin xảy ra khi tế bào β đảo tụy suy giảm chức năng tiết insulin đồng thời tăng đề kháng insulin ở mô ngoại biên. Đái tháo đường thai kỳ có liên quan với biến chứng ngắn hạn và biến chứng dài hạn cho thai nhi. Ngoài ra còn tăng nguy cơ các bệnh tim mạch-chuyển hóa ở mẹ và trẻ. Việc điều trị đái tháo đường thai kỳ giúp cải thiện kết cục chu sinh và sản khoa, nhưng kết cục tim mạch-chuyển hóa vẫn còn cao ở những trẻ mà mẹ có đái tháo đường thai kỳ. Nguyên nhân cho những rối loạn này có thể do thai bị tiếp xúc với tình trạng tăng đường huyết quá lâu. Với các tiêu chí chẩn đoán hiện tại thì đến tuần thứ 26-30 thai phụ mới có thể được chẩn đoán chính xác đái tháo đường thai kỳ, vì thế mà giai đoạn cửa sổ dài ra và thời gian can thiệp cũng hẹp hơn. Do đó, có thể việc phát hiện và điều trị sớm GDM có thể cải thiện kết quả chu sinh và lâu dài ở thai phụ mắc GMD và thai nhi.
Để làm rõ liệu phát hiện GMD sớm có khả thi và có giúp cải thiện kết cục thai kỳ hay không, tác giả Lekva và các cộng sự đã tiến hành phân tích dân số của một đoàn hệ tiến cứu trước đó (đoàn hệ nghiên cứu STORK), trong đó có 1031 thai phụ nguy cơ GMD thấp. Các thai phụ được theo dõi trong suốt thai kỳ và sinh tại Bệnh viện Đại học Oslo Rikshospitalet trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2008. Tiêu chuẩn loại là những phụ nữ đã được chẩn đoán GMD và có các bệnh tim, đường tiêu hóa hoặc thận. Mỗi phụ nữ mang thai có bốn lần khám thai trong khuôn khổ nghiên cứu tại các tuần 14-16, 22-24, 24-32 và 36-38. Tất cả phụ nữ có tuổi thai 14-16 tuần và 30-32 tuần khi mang thai đều được làm OGTT 75g. Tất cả phụ nữ được mời tham gia vào nghiên cứu được theo dõi sau sinh 5 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy xét nghiệm dung nạp 75g glucose đường uống (OGTT) vào lúc 14-16 tuần thai có thể dự đoán thai phụ sẽ mắc GDM hoặc thai to so với tuổi thai (LGA), sử dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau (WHO1999, IADPSG2010, WHO2013, NORWAY2017). Dựa vào một phân tích thứ hai từ 300 thai phụ khác trong nghiên cứu STOCK, tác giả phân tích chức năng tế bào β đảo tuỵ tại 2 thời điểm 14-16 tuần và 30-32 tuần tuổi thai và nguy cơ mắc tiền đái tháo đường 5 năm hậu sản. Kết quả cho thấy chức năng tế bào β đảo tuỵ tại thời điểm 14-16 tuần có khả năng dự đoán GMD chính xác hơn (OR=0,41 [0,22–0,76], p = 0,005).
Tuy nhiên, nghiệm pháp OGTT 14-16 tuần để xác định thai phụ sẽ có nguy cơ GDM hoặc LGA có độ nhạy thấp và tác giả cũng không thể xác định ngưỡng cắt để loại trừ nhóm không có nguy cơ hoặc xác định nhóm được hưởng lợi từ việc can thiệp sớm. Chức năng tế bào β ở thời điểm tam cá nguyệt thứ nhất là yếu tố tiên lượng mạnh hơn so với chức năng tế bào β ở tam cá nguyệt thứ ba trong việc dự đoán tiền đái tháo đường ở mẹ.
Tóm lại, trong nhóm dân số có nguy cơ bình thường thấp, nghiệm pháp OGTT 75g tại thời điểm 14-16 tuần tuổi thai vẫn chưa đủ để xác định các trường hợp cần điều trị sớm GDM hoặc loại trừ nguy cơ GDM và thai kỳ LGA. Ngoài ra, chức năng tế bào β tụy trong 3 tháng đầu thai kỳ có ý nghĩa quan trọng trong việc tiên đoán đái tháo đường ở mẹ sau sinh 5 năm.
BS Lê Khắc Tiến, Nhóm nghiên cứu Nội tiết – Mãn kinh, BV Mỹ Đức
Nguồn: Lekva T., Godang K., Michelsen A.E. và cộng sự. (2018). Prediction of Gestational Diabetes Mellitus and Pre-diabetes 5 Years Postpartum using 75 g Oral Glucose Tolerance Test at 14–16 Weeks’ Gestation. Sci Rep, 8(1), 1–9.
Để làm rõ liệu phát hiện GMD sớm có khả thi và có giúp cải thiện kết cục thai kỳ hay không, tác giả Lekva và các cộng sự đã tiến hành phân tích dân số của một đoàn hệ tiến cứu trước đó (đoàn hệ nghiên cứu STORK), trong đó có 1031 thai phụ nguy cơ GMD thấp. Các thai phụ được theo dõi trong suốt thai kỳ và sinh tại Bệnh viện Đại học Oslo Rikshospitalet trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2008. Tiêu chuẩn loại là những phụ nữ đã được chẩn đoán GMD và có các bệnh tim, đường tiêu hóa hoặc thận. Mỗi phụ nữ mang thai có bốn lần khám thai trong khuôn khổ nghiên cứu tại các tuần 14-16, 22-24, 24-32 và 36-38. Tất cả phụ nữ có tuổi thai 14-16 tuần và 30-32 tuần khi mang thai đều được làm OGTT 75g. Tất cả phụ nữ được mời tham gia vào nghiên cứu được theo dõi sau sinh 5 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy xét nghiệm dung nạp 75g glucose đường uống (OGTT) vào lúc 14-16 tuần thai có thể dự đoán thai phụ sẽ mắc GDM hoặc thai to so với tuổi thai (LGA), sử dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau (WHO1999, IADPSG2010, WHO2013, NORWAY2017). Dựa vào một phân tích thứ hai từ 300 thai phụ khác trong nghiên cứu STOCK, tác giả phân tích chức năng tế bào β đảo tuỵ tại 2 thời điểm 14-16 tuần và 30-32 tuần tuổi thai và nguy cơ mắc tiền đái tháo đường 5 năm hậu sản. Kết quả cho thấy chức năng tế bào β đảo tuỵ tại thời điểm 14-16 tuần có khả năng dự đoán GMD chính xác hơn (OR=0,41 [0,22–0,76], p = 0,005).
Tuy nhiên, nghiệm pháp OGTT 14-16 tuần để xác định thai phụ sẽ có nguy cơ GDM hoặc LGA có độ nhạy thấp và tác giả cũng không thể xác định ngưỡng cắt để loại trừ nhóm không có nguy cơ hoặc xác định nhóm được hưởng lợi từ việc can thiệp sớm. Chức năng tế bào β ở thời điểm tam cá nguyệt thứ nhất là yếu tố tiên lượng mạnh hơn so với chức năng tế bào β ở tam cá nguyệt thứ ba trong việc dự đoán tiền đái tháo đường ở mẹ.
Tóm lại, trong nhóm dân số có nguy cơ bình thường thấp, nghiệm pháp OGTT 75g tại thời điểm 14-16 tuần tuổi thai vẫn chưa đủ để xác định các trường hợp cần điều trị sớm GDM hoặc loại trừ nguy cơ GDM và thai kỳ LGA. Ngoài ra, chức năng tế bào β tụy trong 3 tháng đầu thai kỳ có ý nghĩa quan trọng trong việc tiên đoán đái tháo đường ở mẹ sau sinh 5 năm.
BS Lê Khắc Tiến, Nhóm nghiên cứu Nội tiết – Mãn kinh, BV Mỹ Đức
Nguồn: Lekva T., Godang K., Michelsen A.E. và cộng sự. (2018). Prediction of Gestational Diabetes Mellitus and Pre-diabetes 5 Years Postpartum using 75 g Oral Glucose Tolerance Test at 14–16 Weeks’ Gestation. Sci Rep, 8(1), 1–9.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chiều dài kênh cổ tử cung và định lượng FETAL FIBRONECTIN trong dự đoán sinh non ở nhóm bệnh nhân bất thường tử cung bẩm sinh - Ngày đăng: 08-10-2019
Xét nghiệm di truyền phôi xâm lấn tối thiểu sử dụng môi trường nuôi cấy phôi nang - Ngày đăng: 08-10-2019
Xác định giới hạn phát hiện sự tái sắp xếp nhiễm sắc thể ở phôi giai đoạn tiền làm tổ sử dụng phương pháp next generation sequencing (NGS) - Ngày đăng: 07-10-2019
Chưa tìm ra mối liên quan rõ ràng giữa ô nhiễm không khí và kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 07-10-2019
Nội mạc tử cung bao nhiêu là thuận lợi cho tỷ lệ thai sau chuyển phôi? - Ngày đăng: 07-10-2019
Chuyển phôi đông lạnh liên quan đến tăng cân nặng trẻ sơ sinh so với chuyển phôi tươi: nghiên cứu đoàn hệ đa trung tâm trên các phôi anh chị em - Ngày đăng: 04-10-2019
Endothelin-1 thúc đẩy sự trưởng thành của noãn GV người bằng cách điều hoà giảm sự biểu hiện connexin-26 của tế bào cumulus - Ngày đăng: 04-10-2019
Sự co sụp khoang phôi nang tự phát như là một dấu ấn phôi dự đoán kết cục thai kỳ kém: nghiên cứu time-lapse - Ngày đăng: 04-10-2019
Một phân tích cộng gộp và tổng quan hệ thống xác định sự ảnh hưởng của tổn thương DNA đối với kết cục IVF và ICSI - Ngày đăng: 04-10-2019
Nguy cơ nhận dạng sai trẻ sơ sinh trong các thai kỳ đa thai so với đơn thai tại khoa hồi sức sơ sinh - Ngày đăng: 30-09-2019
Phụ nữ nghĩ gì về kiểm tra khả năng dự trữ buồng trứng và kỹ thuật đông lạnh noãn - Ngày đăng: 30-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK