Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 04-10-2019 9:45am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
Sự hình thành khoang phôi bắt đầu thông qua việc sự chế tiết của các tế bào phôi dâu: khoang nhỏ được duy trì nhờ hoạt động của các kênh xuyên màng Na+/K+ -ATPase, để tăng nồng độ muối trong phôi và hấp thụ nước vào khoang phôi thông qua thẩm thấu. Đồng thời, lớp tế bào lá nuôi (TE) tiết lysine sẽ làm mỏng màng trong suốt của noãn.  Việc nở rộng và màng trong suốt mỏng dần sẽ làm phôi thoát màng. Tuy nhiên, quá trình phôi người thoát màng vẫn còn chưa được hiểu rõ ràng. Sự co rút nhẹ của phôi có thể có lợi cho quá trình này, như nếu co sụp giảm >50% thể tích của phôi nang thì sẽ ảnh hưởng đến quá trình thoát màng (Niimura và cs., 2003). Hiện tượng co sụp rồi nở rộng lại trong quá trình phát triển phôi nang được quan sát thấy khi nuôi cấy time-lapse. Theo một nghiên cứu năm 2015, một số thông số động học như thời điểm hình thành phôi dâu, thời điểm bắt đầu hình thành khoang phôi ngắn hơn đáng kể ở phôi bị co sụp. Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ giảm từ 48,5% đến 35,1% khi chuyển phôi co sụp (Marcos và cs., 2015).



Nuôi cấy phôi dài ngày và chuyển phôi giai đoạn phôi nang đã trở thành quy trình thường quy của các trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm. Gần đây, việc chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET) ở giai đoạn phôi nang là phương án điều trị thay thế vẫn duy trì hiệu quả kết cục thai như giảm tối đa đa thai. Vì thế, cần các “dấu ấn” hay  phương pháp để lựa chọn phôi có tiềm năng tốt để eSET. Do đó, nghiên cứu này đã tiến hành khảo sát mối tương quan giữa việc co sụp (collapse) khoang phôi nang tự phát (nội sinh) và kết quả thai sau eSET phôi nang.

Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại trung tâm hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Roy của Vương quốc Anh. Phôi được nuôi cấy trong môi trường bước đơn (GTL ™ Vitrolife, Thụy Điển), ở điều kiện 6% CO2, 5% O2; phôi được lựa chọn để chuyển bằng tiêu chí hình thái tiêu chuẩn. Sử dụng hệ thống nuôi cấy phôi time-lapse (TLM) của EmbryoScope ™, sự co sụp của khoang phôi nang được phân tích bằng cách đo mức giảm thể tích dịch phôi nang tối đa và được xác định là đã co sụp nếu giảm > 50% thể tích. Các cặp vợ chồng được điều trị IVF / ICSI và chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET) ở giai đoạn phôi nang đã được đưa vào nghiên cứu này (tổng số 356 phôi). Chia 2 nhóm phôi nang: co sụp trong quá trình phát triển hoặc không co sụp. 62 phôi nang đã co sụp một lần hoặc nhiều hơn trong quá trình phát triển (17,4%), 294 phôi còn lại không thấy co sụp (82,6%).

Kết quả:

Tỷ lệ làm tổ (IR) là 61,2% và tỷ lệ thai diễn tiến (OPR) là 53,7% cao hơn đáng kể ở nhóm phôi nang không bị co sụp so với nhóm phôi nang bị co sụp (tỷ lệ IR 22,6% và OPR 17,7%).
Nghiên cứu này đã chứng minh rằng các phôi nang người tự co sụp trong quá trình phát triển in vitro sẽ ít có khả năng làm tổ và mang thai so với phôi không bị co sụp. Mặc dù đây là một nghiên cứu hồi cứu, như kết quả cho thấy rằng sự co sụp trong quá trình phát triển của phôi nang như là một “dấu ấn” mới của việc lựa chọn phôi để eSET ở giai đoạn phôi nang.

CVPH. Trần Hà Lan Thanh-IVFMD Phú Nhuận
 
Nguồn: Spontaneous blastocyst collapse as an embryo marker of low pregnancy outcome: A Time-Lapse study, JBRA Assisted Reproduction, 2019, doi: 10.5935/1518-0557.20190044
Từ khóa: nuôi cấy phôi, time-lapse, phôi nang tự co sụp, chuyển đơn phôi nang, kết cục thai kỳ
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK