Tin tức
on Monday 07-10-2019 10:39am
Danh mục: Tin quốc tế
Độ dày nội mạc tử cung <8 mm đối với chuyển phôi tươi và <7 mm đối với chuyển phôi đông lạnh có thể làm giảm cơ hội mang thai, mặc dù bệnh nhân vẫn có thể có thai khi NMTC 4 mm. Đây là những phát hiện khi phân tích 21.914 chu kỳ chuyển phôi tươi và 18.942 chu kỳ chuyển phôi trữ được ghi nhận tại dữ liệu của Cơ quan đăng ký HTSS Canada (Canadian ART Registry) từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12 năm 2015. Đây là nghiên cứu hồi cứu lớn nhất cho đến nay đánh giá độ dày của một nội mạc tử cung mỏng vào ngày khởi động trưởng thành noãn có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thai - một chủ đề còn nhiều tranh cãi.
Đảm bảo sự tiếp nhận phôi của nội mạc tử cung (NMTC) là thiết yếu cho sự thành công của một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Thực hành thường quy hiện nay là dùng siêu âm ngả âm đạo để đánh giá độ dày NMTC vào ngày khởi động trưởng thành noãn (trong chu kỳ chuyển phôi tươi) hoặc vào ngày quyết định đặt progesterone (trong chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh) để ra quyết định chuyển phôi. Nhiều nghiên cứu trước đây đã cố gắng tìm ra điểm cắt để dự đoán tỷ lệ thai, với kết quả nằm trong khoảng từ 6 mm đến 10 mm. Tuy nhiên, các nghiên cứu này không đồng nhất về phương pháp đo NMTC, phác đồ điều trị, theo dõi,… Chính vì vậy, liệu rằng độ dày NMTC có liên quan đến tỷ lệ thai hay không vẫn còn là một vấn đề còn nhiều tranh luận.
Năm 2014, Kasius và cộng sự đã thực hiện phân tích gộp 22 nghiên cứu đo độ dày NMTC ngày khởi động trưởng thành noãn. Khi phân tích đơn biến trong 10.724 chu kỳ chuyển phôi tươi, độ dày NMTC có khả năng dự đoán có thai thấp. Độ dày NMTC <7 mm, chiếm khoảng 2,4% các trường hợp, có liên quan đến tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn nhưng không liên quan đến tỷ lệ sinh sống. Do đó, tác giả kết luận rằng việc sử dụng độ dày NMTC trong tư vấn là không phù hợp. Khuyến nghị nên bỏ qua độ dày NMTC trong quá trình theo dõi kích thích buồng trứng đã được đưa ra vào đầu năm 2018 bởi phân tích hồi cứu của Griesinger có được từ hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng (RCT). Độ dày NMTC của 1.401 phụ nữ đã được ghi nhận lại và đáng chú ý có 5% trong số này có độ dày NMTC <7 mm. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn khi độ dày NMTC ≥9 mm nhưng giá trị tiên đoán không đáng kể về mặt lâm sàng khi đưa vào phân tích đa biến.
Canadian ART Registry của Canada là một đoàn hệ độc đáo bao gồm các chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ lạnh, có đặc điểm là cỡ mẫu lớn, cho phép phân tầng dữ liệu độ dày NMTC theo mỗi milimet. Kết quả cho thấy rằng mỗi milimet giảm độ dày NMTC <8 mm trong chu kỳ chuyển phôi tươi và <7 mm khi chuyển phôi trữ lạnh dẫn đến giảm đáng kể tỷ lệ thai và sinh sống (LBR). LBR trong nhóm độ dày NMTC ≥8 mm là 33,7% trong chuyển phôi tươi và 28,4% trong các chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh. Trong trường hợp NMTC mỏng, từ 4-5,9 mm, tỷ lệ sinh sống vẫn được ghi nhận là: 25% đối với chuyển phôi tươi (chiếm 1% dân số) và 16,8% đối với chuyển phôi trữ lạnh (chiếm 0,6% dân số).
Nhóm nghiên cứu còn phát hiện thêm rằng phụ nữ từ 40 tuổi trở lên khó có khả năng đạt được độ dày NMTC ≥8 mm. Từ các kết quả trên, các tác giả cho rằng không nên nản lòng khi nội mạc tử cung mỏng. Tuy nhiên, họ cảnh báo rằng thông điệp này nên được giải thích một cách thận trọng vì đoàn hệ của họ chỉ bao gồm các chu kỳ có phôi để chuyển. Thứ hai là do số lượng nhóm NMTC mỏng quá ít, chưa đủ thực sự đưa ra một kết luận vững chắc.
BS Lê Khắc Tiến - IVFMD
Tài liệu tham khảo chính:
1. Liu KE, Hartman M, Hartman A, et al. The impact of a thin endometrial lining on fresh and frozen–thaw IVF outcomes: an analysis of over 40,000 embryo transfers. Hum Reprod 2018; 33: 1883–1888.
2. Kasius A, Smit JG, Torrance HL, et al. Endometrial thickness and pregnancy rates after IVF: a systematic review and meta-analysis. Hum Reprod Update 2014; 20: 530-541.
3. Griesinger G, Trevisan S, Cometti B. Endometrial thickness on the day of embryo transfer is a poor predictor of IVF treatment outcome. HROpen 2018; 1 January 2018, hox031.
Đảm bảo sự tiếp nhận phôi của nội mạc tử cung (NMTC) là thiết yếu cho sự thành công của một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Thực hành thường quy hiện nay là dùng siêu âm ngả âm đạo để đánh giá độ dày NMTC vào ngày khởi động trưởng thành noãn (trong chu kỳ chuyển phôi tươi) hoặc vào ngày quyết định đặt progesterone (trong chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh) để ra quyết định chuyển phôi. Nhiều nghiên cứu trước đây đã cố gắng tìm ra điểm cắt để dự đoán tỷ lệ thai, với kết quả nằm trong khoảng từ 6 mm đến 10 mm. Tuy nhiên, các nghiên cứu này không đồng nhất về phương pháp đo NMTC, phác đồ điều trị, theo dõi,… Chính vì vậy, liệu rằng độ dày NMTC có liên quan đến tỷ lệ thai hay không vẫn còn là một vấn đề còn nhiều tranh luận.
Năm 2014, Kasius và cộng sự đã thực hiện phân tích gộp 22 nghiên cứu đo độ dày NMTC ngày khởi động trưởng thành noãn. Khi phân tích đơn biến trong 10.724 chu kỳ chuyển phôi tươi, độ dày NMTC có khả năng dự đoán có thai thấp. Độ dày NMTC <7 mm, chiếm khoảng 2,4% các trường hợp, có liên quan đến tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn nhưng không liên quan đến tỷ lệ sinh sống. Do đó, tác giả kết luận rằng việc sử dụng độ dày NMTC trong tư vấn là không phù hợp. Khuyến nghị nên bỏ qua độ dày NMTC trong quá trình theo dõi kích thích buồng trứng đã được đưa ra vào đầu năm 2018 bởi phân tích hồi cứu của Griesinger có được từ hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng (RCT). Độ dày NMTC của 1.401 phụ nữ đã được ghi nhận lại và đáng chú ý có 5% trong số này có độ dày NMTC <7 mm. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn khi độ dày NMTC ≥9 mm nhưng giá trị tiên đoán không đáng kể về mặt lâm sàng khi đưa vào phân tích đa biến.
Canadian ART Registry của Canada là một đoàn hệ độc đáo bao gồm các chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ lạnh, có đặc điểm là cỡ mẫu lớn, cho phép phân tầng dữ liệu độ dày NMTC theo mỗi milimet. Kết quả cho thấy rằng mỗi milimet giảm độ dày NMTC <8 mm trong chu kỳ chuyển phôi tươi và <7 mm khi chuyển phôi trữ lạnh dẫn đến giảm đáng kể tỷ lệ thai và sinh sống (LBR). LBR trong nhóm độ dày NMTC ≥8 mm là 33,7% trong chuyển phôi tươi và 28,4% trong các chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh. Trong trường hợp NMTC mỏng, từ 4-5,9 mm, tỷ lệ sinh sống vẫn được ghi nhận là: 25% đối với chuyển phôi tươi (chiếm 1% dân số) và 16,8% đối với chuyển phôi trữ lạnh (chiếm 0,6% dân số).
Nhóm nghiên cứu còn phát hiện thêm rằng phụ nữ từ 40 tuổi trở lên khó có khả năng đạt được độ dày NMTC ≥8 mm. Từ các kết quả trên, các tác giả cho rằng không nên nản lòng khi nội mạc tử cung mỏng. Tuy nhiên, họ cảnh báo rằng thông điệp này nên được giải thích một cách thận trọng vì đoàn hệ của họ chỉ bao gồm các chu kỳ có phôi để chuyển. Thứ hai là do số lượng nhóm NMTC mỏng quá ít, chưa đủ thực sự đưa ra một kết luận vững chắc.
BS Lê Khắc Tiến - IVFMD
1. Liu KE, Hartman M, Hartman A, et al. The impact of a thin endometrial lining on fresh and frozen–thaw IVF outcomes: an analysis of over 40,000 embryo transfers. Hum Reprod 2018; 33: 1883–1888.
2. Kasius A, Smit JG, Torrance HL, et al. Endometrial thickness and pregnancy rates after IVF: a systematic review and meta-analysis. Hum Reprod Update 2014; 20: 530-541.
3. Griesinger G, Trevisan S, Cometti B. Endometrial thickness on the day of embryo transfer is a poor predictor of IVF treatment outcome. HROpen 2018; 1 January 2018, hox031.
Từ khóa: nội mạc tử cung, nội mạc tử cung mỏng, thụ tinh trong ống nghiệm, chuyển phôi tươi, chuyển phôi trữ.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chuyển phôi đông lạnh liên quan đến tăng cân nặng trẻ sơ sinh so với chuyển phôi tươi: nghiên cứu đoàn hệ đa trung tâm trên các phôi anh chị em - Ngày đăng: 04-10-2019
Endothelin-1 thúc đẩy sự trưởng thành của noãn GV người bằng cách điều hoà giảm sự biểu hiện connexin-26 của tế bào cumulus - Ngày đăng: 04-10-2019
Sự co sụp khoang phôi nang tự phát như là một dấu ấn phôi dự đoán kết cục thai kỳ kém: nghiên cứu time-lapse - Ngày đăng: 04-10-2019
Một phân tích cộng gộp và tổng quan hệ thống xác định sự ảnh hưởng của tổn thương DNA đối với kết cục IVF và ICSI - Ngày đăng: 04-10-2019
Nguy cơ nhận dạng sai trẻ sơ sinh trong các thai kỳ đa thai so với đơn thai tại khoa hồi sức sơ sinh - Ngày đăng: 30-09-2019
Phụ nữ nghĩ gì về kiểm tra khả năng dự trữ buồng trứng và kỹ thuật đông lạnh noãn - Ngày đăng: 30-09-2019
Mối tương quan giữa lượng mtDNA và tiềm năng cũng như tình trạng di truyền của phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 30-09-2019
HPV trong tinh dịch làm giảm tỷ lệ thai lâm sàng đối với phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) - Ngày đăng: 30-09-2019
Số lượng noãn chọc hút trong một chu kỳ IVF: Sự cân bằng giữa hiệu quả điều trị và sự an toàn của bệnh nhân - Ngày đăng: 27-09-2019
Dấu hiệu mới trong siêu âm chẩn đoán nhau cài răng lược - Ngày đăng: 27-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK