Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 17-10-2019 9:58am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Nguyễn Cao Trí – IVF Vạn Hạnh
 
Trường hợp có thai đầu tiên sau khi thực hiện kỹ thuật nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) được công bố cách nay khoảng 25 năm (vào năm 1994) và sau hơn 20 năm phát triển, mặc dù tỉ lệ noãn trưởng thành và tỉ lệ thai đã được cải thiện đáng kể, nhưng nhìn chung hiệu quả vẫn còn thấp so với thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm với kỹ thuật kích thích buồng trứng thường quy (COS). Kỹ thuật IVM đặc biệt hiệu quả với nhóm bệnh nhân bị hội chứng đa nang buồng trứng (PCOS), với quy trình hạn chế tối đa nguy cơ quá kích buồng trứng, bên cạnh đó nhóm đối tượng phụ nữ cần bảo tồn khả năng sinh sản khi điều trị cũng là nhóm cần đến IVM. Với ước tính đến nay khoảng hơn 5000 trẻ đã được sinh ra nhờ IVM, tuy nhiên các công bố về sự an toàn của công nghệ này vẫn còn nhiều hạn chế như: cỡ mẫu còn ít, các công bố không theo một quy trình IVM cố định, công bố lớn nhất về trẻ sinh khi sử dụng IVM lại được thực hiện trên nhóm đối tượng non-PCOS, các nghiên cứu trên nhóm bị PCOS lại tính chung chung mà không phân thành từng loại kiểu hình PCOS trong khi đây là yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả sản khoa và sơ sinh. Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp thông tin về các biến chứng sản khoa và sơ sinh ở nhóm bệnh nhân PCOS thực hiện thụ tinh ống nghiệm với kỹ thuật IVM so với kích thích buồng trứng thông thường, với quy trình điều trị được kiểm soát và trên cỡ mẫu lớn.
 
Thiết kế nghiên cứu:

Nghiên cứu hồi cứu phân tích dữ liệu sản khoa và sơ sinh từ 1036 trường hợp mang thai lâm sàng ở bệnh nhân PCOS sau một chu kỳ IVM hoặc COS trong khoảng thời gian từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2016. Tổng cộng có 393 trường hợp mang đơn thai với tuổi thai ngoài 20 tuần được phân tích. Trường hợp noãn hiến tặng, IVF cổ điển hoặc xét nghiệm di truyền và tinh trùng từ thủ thuật được loại trừ. Kết quả mang thai được phân tích ở những phụ nữ có kiểu hình PCOS A, C hoặc D, được xác định bởi tiêu chí Rotterdam. Dữ liệu từ 164 trường hợp mang thai sau 20 tuần thực hiện IVM được so sánh với 229 trường hợp mang thai sau COS. Tiêu chuẩn mang thai trong nhóm IVM được nhận sau khi thực hiện kích thích buồng trứng tối thiểu và thực hiện ICSI với noãn GV được nuôi IVM đến giai đoạn metaphase II sau 28 đến 40 giờ nuôi cấy. hCG không được sử dụng khi chọc hút noãn. Các kết quả được phân tích hoặc báo cáo gồm các trường hợp mang thai đơn, các biến chứng sản khoa bất lợi và các thông số sức khỏe sơ sinh, đặc biệt là cân nặng trẻ, sinh non, tuổi thai nhỏ, tuổi thai lớn, tử vong chu sinh và tỷ lệ dị tật lớn/nhỏ. Tỷ lệ mắc các rối loạn tăng huyết áp thai kỳ (HDP), cân nặng khi sinh được phân tích bằng hồi quy tuyến tính, được điều chỉnh các biến điều trị có liên quan và đặc điểm của mẹ.

Các kết quả chính:

Nhóm IVM và COS có sự khác biệt đáng kể (P <0,001) về mức AMH của mẹ và phân bố kiểu hình PCOS, với kiểu hình PCOS-A nhiều hơn ở nhóm IVM. Phụ nữ mang thai trong nhóm IVM trẻ hơn so với phụ nữ mang thai trong nhóm COS (P = 0,05). Liên quan đến các biến chứng sản khoa ở thai kỳ đơn thai, trong phân tích chưa được điều chỉnh, các bà mẹ có con trong nhóm IVM thường bị HDP (29/164 (17,9%) hơn so với 22/229 (9,6%), P = 0,02) so với nhóm COS. Cân nặng trẻ sau sinh ở hai nhóm có tỉ lệ lệch chuẩn (standard deviation score, SDS) khá tương đồng (0,51 ± 0,94 sau IVM so với 0,33 ± 1,05 sau COS, P = 0,19). Tỷ lệ sinh non (32-36,9 tuần tuổi) và tỷ lệ sinh non sớm (<32 tuần) cũng tương tự nhau ở cả hai nhóm. Tổng tỷ lệ dị tật là 4,1% ở nhóm IVM và 2,4% ở nhóm COS. Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến cho các yếu tố gây nhiễu có liên quan cho thấy số lần mang thai là yếu tố tiên đoán độc lập duy nhất (P=0,04) cho SDS cân nặng trẻ khi sinh. Phân tích hồi quy đa thức cho thấy BMI, số lần mang thai và công nghệ hỗ trợ sinh sản (IVM trái ngược với COS) có mối tương quan đáng kể với tỷ lệ mắc HDP. Chỉ những bệnh nhân có kiểu hình PCOS A cho thấy xu hướng mắc HDP cao hơn khi thực hiện IVM so với nhóm COS.
 
Kết luận:

Nghiên cứu cung cấp thêm bằng chứng cho thấy, so với COS, IVM noãn từ các nang thứ cấp nhỏ không ảnh hưởng xấu đến sức khỏe sơ sinh của trẻ ở nhóm bệnh nhân mắc PCOS. Nguy cơ tăng HDP được quan sát thấy ở những bệnh nhân có kiểu hình PCOS A khi thực hiện IVM và cần được xem xét kỹ lưỡng hơn.
 
Nguồn tham khảo:

Mostinckx, L., I. Segers, F. Belva, R. Buyl, S. Santos-Ribeiro, C. Blockeel, et al., Obstetric and neonatal outcome of ART in patients with polycystic ovary syndrome: IVM of oocytes versus controlled ovarian stimulation. Hum. Reprod. 2019 10.1093/humrep/dez086.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Indochine Palace, TP Huế, chiều thứ sáu 9.8.2024 (14:20 - 17:30)

Năm 2020

Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế

Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024

Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK