Theo báo cáo từ “Mạng lưới hợp tác nghiên cứu về thai chết lưu” (Stillbirth Collaborative Research Network) thì bệnh lý sản khoa và các bất thường của nhau là nguyên nhân phổ biến nhất gây nên thai chết lưu ở Mỹ.
Tuy nhiên, theo Robert Silver (Đại học Utah, thành phố Salt Lake, Mỹ) và cộng sự ở JAMA, sự phân bổ của những nguyên nhân kể trên khác nhau ở từng nhóm thai kỳ và chủng tộc. Điều này rất có ý nghĩa trong việc theo dõi và phòng ngừa bệnh.
Họ đã thực hiện nghiên cứu trên dân số từ tháng 3/2006 đến tháng 9/2008, thông qua việc theo dõi tất cả các trường hợp thai chết lưu từ 20 tuần tuổi trở đi. Nghiên cứu tiến hành ở 59 trung tâm y tế và bệnh viện công thuộc 5 khu vực ở Rhode Island, Massachusetts, Georgia, Texas và Utah.
Thai chết lưu được xác định khi điểm số Apgar bằng 0 ở thời điểm 1 phút và 5 phút sau khi sinh và không ghi nhận dấu hiệu sống qua quan sát trực tiếp. Những trường hợp sinh do chấm dứt thai kỳ đối với thai nhi còn sống trong tử cung bị loại ra khỏi nghiên cứu.
Trong số 663 phụ nữ có thai chết lưu được nhận vào nghiên cứu, có 500 người đồng ý thực hiện khám nghiệm tử thi 512 trẻ sơ sinh chết lưu. Theo thống kê, trong số này có 171 người gốc Mỹ Latinh (34,3%), nhóm không thuộc Mỹ Latinh có 180 người da trắng (36,1%) và 112 người da đen (22,4%), còn lại 36 người (7,2%) thuộc các chủng tộc khác.
Một nguyên nhân có khả năng cao trực tiếp gây chết cho thai được tìm thấy trong 312 (60,9%) thai chết lưu. Một nguyên nhân có thể liên quan trong chuỗi sinh lý bệnh đưa đến tử vong cho thai, đáp ứng các tiêu chuẩn của hơn một nguyên nhân gây bệnh, được tìm thấy trong 390 (76,2%) trường hợp. Ghi nhận 161 (31,4%) trường hợp thai chết lưu có thể do hơn một nguyên nhân gây ra.
Biến chứng sản khoa, bao gồm nhau bong non và các biến chứng của đa thai, là nguyên nhân phổ biến nhất gây tử vong cho thai, xảy ra ở 150 (29,3%) trường hợp.
Các bất thường của nhau, bao gồm suy tuần hoàn tử cung nhau, xảy ra ở 121 trường hợp (23,6%).
Những nguyên nhân khác như bệnh mạch máu của mẹ xảy ra ở 7,6% trường hợp, bất thường di truyền và cấu trúc của thai nhi 13,7%, nhiễm trùng 12,9%, bất thường dây rốn 10,4%, tăng huyết áp của mẹ 9,2%, và các biến chứng do bệnh nội khoa của mẹ 7,8%.
Tỉ lệ thai chết lưu do biến chứng sản khoa ở phụ nữ da đen không thuộc gốc Mỹ Latinh nhiều hơn đáng kể so với tổng tỉ lệ này ở cả hai nhóm phụ nữ da trắng và phụ nữ gốc Mỹ Latinh (43,5% so với 23,7%). Phụ nữ da đen cũng chiếm tỷ lệ cao hơn ở thai chết lưu do nguyên nhân nhiễm trùng (25,2% so với 7,8%).
Tuy nhiên, nhóm phụ nữ da trắng và phụ nữ gốc Mỹ Latinh lại chiếm số lượng lớn hơn về tỉ lệ thai lưu do bất thường dây rốn là 12,8% so với 4,6% ở nhóm phụ nữ da đen và các chủng tộc khác.
Phân tích sâu hơn cho thấy chỉ có một số phương pháp có thể cung cấp thông tin tốt hơn về nguyên nhân của thai chết lưu như mô học nhau thai, khám nghiệm tử thi và xác định bộ nhiễm sắc thể (karyotype). Các chuyên gia đề nghị rằng những phương pháp này nên được khuyến cáo mạnh mẽ như là một phần của đánh giá chẩn đoán.
"Ngoài ra, cần xem xét đến việc tăng cường các biện pháp can thiệp với mục đích giảm tỉ lệ thai chết lưu, dựa vào sự phân bổ khác nhau của các nguyên nhân trên từng nhóm tuổi thai và từng chủng tộc khác nhau", theo Silver và cộng sự.
Bs.Nguyễn Thị Hà
Nguồn:
http://www.orgyn.com/en/womens_health/Current_Headlines/fullpage.asp?C=81299409201962152778&xml=/en/currentheadlines/2011/week_51/day1/currentheadlines.xml
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...