Theo một phân tích gộp được đăng trực tuyến vào ngày 14/12 trên American Journal of Obstetrics and Gynecology, những phụ nữ được phát hiện cổ tử cung ngắn qua siêu âm có thể giảm một nửa nguy cơ sinh non với progesterone đường âm đạo. Bài báo cáo khẳng định lại các kết quả từ nhiều thử nghiệm tiền cứu ngẫu nhiên chứng minh progesterone có hiệu quả trong việc ngăn ngừa sinh non.
“Phân tích gộp dữ liệu cá nhân này cung cấp một bằng chứng thuyết phục về lợi ích của progesterone đường âm đạo trong ngăn ngừa sinh non và giảm bệnh suất/tử suất sơ sinh ở những phụ nữ có cổ tử cung ngắn,” Roberto Romero, MD, trưởng Chi nhánh Nghiên cứu Chu sinh học ở Viện Sức khỏe và Phát triển Trẻ em Quốc gia Eunice Kennedy Shriver thuộc các viện Sức khỏe quốc gia, cùng cộng sự viết. “Can thiệp này dường như hiệu quả hơn ở những bệnh nhân đơn thai và chiều dài cổ tử cung từ 10 đến 20 mm.”
Nhóm nghiên cứu, bao gồm những cộng tác viên từ Mỹ, Úc, Brazil, Đan Mạch, Ấn Độ, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, và Anh quốc, đã xem lại các dữ liệu cá nhân của các bệnh nhân từ 5 cuộc thử nghiệm ngẫu nhiên chất lượng cao về hiệu quả và tính an toàn của progesterone đường âm đạo trong việc ngăn ngừa sinh non và tử suất/ bệnh suất sơ sinh. Có tất cả 775 phụ nữ và 827 trẻ em tham gia vào các nghiên cứu này và được đưa vào phân tích gộp.
Bác sĩ Romeo và các cộng sự định nghĩa cổ tử cung ngắn khi chiều dài cổ tử cung dưới 25 mm, được xác định qua siêu âm trong tam cá nguyệt giữa; 25 mm là chiều dài thường được sử dụng nhất trong những nghiên cứu đánh giá giá trị tiên đoán của chiều dài cổ tử cung trong sinh non. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng tỉ lệ sinh non trước 33 tuần tuổi thai làm kết cục chính; các kết cục phụ bao gồm sinh non muộn tại nhiều thời điểm, các kết cục về bệnh suất và tử suất sơ sinh. Phần lớn các bà mẹ và trẻ em thuộc 2 trong số các nghiên cứu tiền cứu có đối chứng (Fonseca và cộng sự, 2007; Hassan và cộng sự, 2010).
Progesterone đường âm đạo làm giảm 42% tỉ lệ sinh non dưới 33 tuần tuổi thai (RR 0.58; CI 95%, 0.42 – 0.80). Nó cũng làm giảm 31% nguy cơ sinh dưới 35 tuần tuổi thai (RR 0.69; CI 95%, 0.55 – 0.88), và giảm 50% nguy cơ sinh dưới 28 tuần tuổi thai (RR 0.50; 95% CI, 0.30 - 0.81).
Progesterone đường âm đạo cũng cải thiện các kết cục sau: hội chứng suy hô hấp (RR 0.48; CI 95%, 0.30 – 0.76), bệnh suất và tử suất sơ sinh (RR 0.57; CI 95%, 0.40 – 0.81), cân nặng lúc sinh dưới 1500 g (RR 0.55; CI 95%, 0.38 – 0.80), nhập hồi sức sơ sinh (RR 0.75; CI 95%, 0.59 – 0.94), và nhu cầu thở máy (RR 0.66; CI 95%, 0.44 – 0.98).
Mặc cho những cải thiện có ý nghĩa về mặt thống kê này, vẫn có 2 nhà bình luận cho rằng phân tích gộp chưa xác định rõ tiêu chuẩn về sử dụng progesterone trong ngăn ngừa sinh non ở các phụ nữ có cổ tử cung ngắn.
Trong một cuộc phỏng vấn với Medscape Medical News, Sarah Bradley, MD, phó giáo sư lâm sàng của khoa Phụ Sản thuộc Đại học Wisconsin-Madison, gọi phân tích gộp này là “u ám”.
“Các thử nghiệm khác nhau có các tiêu chuẩn khác nhau cho cổ tử cung ngắn, và các phụ nữ được đưa vào nghiên cứu vừa có khâu cổ tử cung vừa dùng progesterone âm đạo, vì vậy rất khó để tách biệt 2 phương pháp đó,” bà nói thêm.
“Các số liệu này không thật sự là mới,” theo lời Aaron B. Caughey, MD, PhD, giám đốc Khoa sức khỏe phụ nữ và trưởng khoa Phụ Sản, thuộc Đại học Khoa học Sức khỏe Oregon, Portland, trong một cuộc phỏng vấn với Medscape Medical News. “Chúng ta đã biết các kết quả này từ 2 nghiên cứu lớn.” Bác sĩ Caughey nói rằng nghiên cứu của Fonseca và cộng sự vào năm 2007 cùng nghiên cứu của Hassan và cộng sự vào năm 2011 đã đóng góp phần lớn các số liệu, và bài phân tích gộp này không đưa thêm được nhiều thông tin.
Thêm vào đó, vẫn còn thiếu các thông tin chủ chốt. “Vấn đề là phải định nghĩa thế nào là cổ tử cung ngắn,” Bác sĩ Caughey nói. “Nó là 10 mm, 15, hay 20?”
Trong khi tư vấn bệnh nhân, Bác sĩ Caughey nói, “chúng tôi giải thích rằng việc khâu cổ tử cung và dùng progesterone là các lựa chọn trong điều trị và dành nó cho những phụ nữ có cổ tử cung dưới 15 mm. Một vài phụ nữ có thể yêu cầu cả 2 phương pháp, nhưng một trong 2 phương pháp đó là đã đủ.” Bác sĩ Caughey cũng thấy rằng cần có nhiều nghiên cứu hơn để phát triển các can thiệp tối ưu trong việc ngăn ngừa sinh non.
Theo ông, các nghiên cứu trong tương lai cần ưu tiên việc phân tầng đối tượng nghiên cứu theo chủng tộc, sắc tộc, tình trạng kinh tế xã hội, và tuổi của mẹ.
Nguồn: Am J Obstet Gynecol. 2011. Published online December 12, 2011.
BS Nguyễn Thị Ngọc NhânThứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...