Kể từ lần đầu tiên được mô tả bởi Bouchardat vào năm 1875, đái tháo đường (ĐTĐ) ngày càng được quan tâm do mức độ ảnh hưởng lan rộng và các tổn thất của bệnh gây ra cho cộng đồng. Đến 1985, tổ chức y tế thế giới đã phân biệt rõ đái tháo đường týp 1 và týp 2.
Đái tháo đường týp 1 có tỷ lệ khoảng 1/500 trẻ, tỷ lệ này thay đổi theo từng lứa tuổi cụ thể, theo vùng địa lý, và theo chủng tộc.
Ngày càng có nhiều sự thống nhất với quan điểm trẻ mắc ĐTĐ týp 1, khi so với nhóm chứng, có nguy cơ gặp khó khăn trong sự phát triển nhận thức. Tuy nhiên, kết quả thu được từ các nghiên cứu lại không đồng nhất về mức độ và kiểu khó khăn trong phát triển nhận thức (nhận thức chung hay bất thường tâm lý thần kinh chuyên biệt) do khác biệt về mẫu, phương pháp lấy mẫu, khả năng đánh giá nhận thức, thiết kế nghiên cứu. Mức độ, kiểu khó khăn trong phát triển nhận thức, và các yếu tố nguy cơ có liên quan vẫn còn là những vấn đề đang được tranh cãi. Bên cạnh đó, Tuổi khởi phát ĐTĐ sớm được xác định trong y văn như là một yếu tố nguy cơ mạnh nhất có liên quan đến bất thường trong phát triển nhận thức.
Đi từ những vấn đề trên, tác giả Patricia A. Gaudieri, bác sĩ khoa tâm lý học, Đại học Rochester, Hoa Kỳ, cùng với cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu phân tích meta nhằm xác định xem liệu có bằng chứng nào cho thấy có sự rối loạn chức năng nhận thức ở trẻ ĐTĐ týp 1 so với trẻ thường hay không? Mục tiêu thứ hai của nghiên cứu nhằm so sánh giữa trẻ có khởi phát ĐTĐ sớm trong độ tuổi từ 4-7 tuổi so với trẻ có khởi phát muộn hơn.
Nghiên cứu được thực hiện từ việc thu thập các thông tin, dữ liệu có liên quan từ MEDLINE và PsyInfo từ 1985 đến 2008.
Kết qua thu được cho thấy mẫu nghiên cứu phân tích meta này bao gồm 2.144 trẻ với 1.393 trẻ mắc ĐTĐ týp 1 và 751 trẻ nhóm chứng lấy ra từ 19 nghiên cứu. Nhìn chung, ĐTĐ týp 1 có liên quan với sự giảm nhẹ chức năng nhận thức, với sự khác biệt nhỏ khi so với nhóm chứng trên nhiều lĩnh vực, ngoại trừ khả năng học và nhớ có kết quả tương tự nhau ở cả hai nhóm. Kỹ năng học và nhớ , cả bằng miệng và bằng mắt, bị ảnh hưởng nhiều hơn ở nhóm khởi phát ĐTĐ sớm so với nhóm khởi phát muộn, kéo theo đó là ảnh hưởng đến kỹ năng tập trung và thực hiện kế hoạch. Sự xuất hiện triệu chứng co giật có liên quan không đáng kể đến chức năng nhận thức, nhiều khả năng đây chỉ là biểu hiện do kiểm soát chuyển hóa kém.
Tóm lại, nghiên cứu trên cho thấy ĐTĐ týp 1 ở trẻ em nhìn chung có liên quan với thang điểm nhận thức hơi kém hơn khi so với trẻ bình thường trong phần lớn các lĩnh vực nhận thức. Tác động trên nhận thức rõ hơn, nhiều hơn ở trẻ khởi phát ĐTĐ sớm. Tuy nhiên, cần lưu ý triệu chứng co giật thường không có ý nghĩa đáng kể.
(Nguồn: Diabetes Care, V31, 09/2008)
BS Nguyễn An Nghĩa
Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế
New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...
Caravelle Hotel Saigon, chiều thứ bảy 20.4 và chủ nhật 21.4.2024
Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
Sách dự kiến phát hành đầu tháng 6.2024
Sách ra mắt ngày 9 . 3 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...