Tin tức
on Friday 05-02-2021 3:19pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Lâm Thị Mỹ Hậu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
Xét nghiệm tiền sản không xâm lấn (Non-invasive prenatal testing - NIPT) là xét nghiệm dựa trên DNA tự do (cell-free DNA - cfDNA) trong máu của mẹ. Trong đó, khoảng 10% lượng DNA tự do này có nguồn gốc từ bánh nhau và vì thế có thể đại diện cho kiểu gen của thai nhi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh NIPT có độ đặc hiệu và độ nhạy cao trong phát hiện các trường hợp thai bị đột biến tam nhiễm ở các nhiễm sắc thể (NST) 21, 18 và 13. Tuy nhiên, phân đoạn cfDNA của thai (fetal fraction - FF) là một nhân tố quan trọng quyết định tính chính xác của xét nghiệm NIPT. Một số nghiên cứu đã chỉ ra sự sụt giảm FF trong các thai kì sau thụ tinh trong ống nghiệm so với thai tự nhiên. Tuy nhiên, sự thay đổi FF trong các thai kỳ thụ tinh trong ống nghiệm có chuyển phôi tươi hay chuyển phôi đông lạnh vẫn còn chưa được hiểu rõ. Chính vì thế, nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá sự khác biệt về phân đoạn DNA tự do của thai trong các thai kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, bao gồm chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh, so với thai tự nhiên.
Nghiên cứu thu thập được dữ liệu từ 54 người phụ nữ mang thai sau điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Sau khi loại trừ các yếu tố không thích hợp, 23 mẫu từ những người phụ nữ mang thai sau chuyển phôi tươi và 26 từ phụ nữ mang thai sau chuyển phôi đông lạnh được đưa vào phân tích. Những mẫu này được thu thập từ tháng 02/2018 đến tháng 11/2018. Kết quả được so sánh với nhóm đối chứng gồm 238 phụ nữ mang thai tự nhiên có kết quả nguy cơ cao từ xét nghiệm sàng lọc trong tam cá nguyệt đầu tiên. Các mẫu máu để xét nghiệm NIPT được thu thập từ 11+0/7 tuần đến 14 +2/7 tuần tuổi thai.
Kết quả cho thấy có sự sụt giảm FF ở những bệnh nhân điều trị thụ tinh trong ống nghiệm so với những phụ nữ có thai tự nhiên. Sự sụt giảm này rõ rệt ở nhóm bệnh nhân chuyển phôi tươi hơn là nhóm chuyển phôi đông lạnh. Một phân tích hồi quy đa biến còn chỉ ra FF giảm đáng kể khi chỉ số khối cơ thể (body mass index – BMI) của mẹ tăng và nồng độ PAPP-A huyết thanh của mẹ giảm.
Tuy nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu còn ít và nhóm đối chứng không đồng nhất với nhóm được điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Phần lớn phụ nữ từ nhóm đối chứng có nguy cơ cao trong các xét nghiệm tiền sản trong tam cá nguyệt đầu. Do đó các dấu hiệu sinh hóa của họ có thể có sự biến thiên khác nhau. Tuy nhiên, các dấu hiệu sinh hóa của những phụ nữ được điều trị thụ tinh trong ống nghiệm được chuyển phôi tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh không khác biệt có ý nghĩa thống kê khi phân tích dưới nhóm.
Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên kiểm tra FF trong thai kỳ sau thụ tinh trong ống nghiệm nhờ chuyển phôi tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh. Dù còn một số hạn chế trong nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy rằng FF thậm chí còn giảm nhiều hơn ở các thai kỳ sau chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh, điều này có thể phản ánh khuynh hướng tuổi thai sau chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh.
Nguồn: Anna L. Talbot, Louise Ambye, Tanja S. Hartwig, Lene Werge, Steen Sørensen, Sacha Stormlund, Lisbeth Prætorius, Henrik L. Jørgensen, Anja Pinborg, and Finn S. Jørgensen, Fetal fraction of cell-free DNA in pregnancies after fresh or frozen embryo transfer following assisted reproductive technologies, Human Reproduction, pp. 1–9, 2020 doi:10.1093/humrep/deaa110
Xét nghiệm tiền sản không xâm lấn (Non-invasive prenatal testing - NIPT) là xét nghiệm dựa trên DNA tự do (cell-free DNA - cfDNA) trong máu của mẹ. Trong đó, khoảng 10% lượng DNA tự do này có nguồn gốc từ bánh nhau và vì thế có thể đại diện cho kiểu gen của thai nhi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh NIPT có độ đặc hiệu và độ nhạy cao trong phát hiện các trường hợp thai bị đột biến tam nhiễm ở các nhiễm sắc thể (NST) 21, 18 và 13. Tuy nhiên, phân đoạn cfDNA của thai (fetal fraction - FF) là một nhân tố quan trọng quyết định tính chính xác của xét nghiệm NIPT. Một số nghiên cứu đã chỉ ra sự sụt giảm FF trong các thai kì sau thụ tinh trong ống nghiệm so với thai tự nhiên. Tuy nhiên, sự thay đổi FF trong các thai kỳ thụ tinh trong ống nghiệm có chuyển phôi tươi hay chuyển phôi đông lạnh vẫn còn chưa được hiểu rõ. Chính vì thế, nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá sự khác biệt về phân đoạn DNA tự do của thai trong các thai kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, bao gồm chuyển phôi tươi và chuyển phôi đông lạnh, so với thai tự nhiên.
Nghiên cứu thu thập được dữ liệu từ 54 người phụ nữ mang thai sau điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Sau khi loại trừ các yếu tố không thích hợp, 23 mẫu từ những người phụ nữ mang thai sau chuyển phôi tươi và 26 từ phụ nữ mang thai sau chuyển phôi đông lạnh được đưa vào phân tích. Những mẫu này được thu thập từ tháng 02/2018 đến tháng 11/2018. Kết quả được so sánh với nhóm đối chứng gồm 238 phụ nữ mang thai tự nhiên có kết quả nguy cơ cao từ xét nghiệm sàng lọc trong tam cá nguyệt đầu tiên. Các mẫu máu để xét nghiệm NIPT được thu thập từ 11+0/7 tuần đến 14 +2/7 tuần tuổi thai.
Kết quả cho thấy có sự sụt giảm FF ở những bệnh nhân điều trị thụ tinh trong ống nghiệm so với những phụ nữ có thai tự nhiên. Sự sụt giảm này rõ rệt ở nhóm bệnh nhân chuyển phôi tươi hơn là nhóm chuyển phôi đông lạnh. Một phân tích hồi quy đa biến còn chỉ ra FF giảm đáng kể khi chỉ số khối cơ thể (body mass index – BMI) của mẹ tăng và nồng độ PAPP-A huyết thanh của mẹ giảm.
Tuy nhiên, cỡ mẫu nghiên cứu còn ít và nhóm đối chứng không đồng nhất với nhóm được điều trị thụ tinh trong ống nghiệm. Phần lớn phụ nữ từ nhóm đối chứng có nguy cơ cao trong các xét nghiệm tiền sản trong tam cá nguyệt đầu. Do đó các dấu hiệu sinh hóa của họ có thể có sự biến thiên khác nhau. Tuy nhiên, các dấu hiệu sinh hóa của những phụ nữ được điều trị thụ tinh trong ống nghiệm được chuyển phôi tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh không khác biệt có ý nghĩa thống kê khi phân tích dưới nhóm.
Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên kiểm tra FF trong thai kỳ sau thụ tinh trong ống nghiệm nhờ chuyển phôi tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh. Dù còn một số hạn chế trong nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy rằng FF thậm chí còn giảm nhiều hơn ở các thai kỳ sau chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh, điều này có thể phản ánh khuynh hướng tuổi thai sau chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh.
Nguồn: Anna L. Talbot, Louise Ambye, Tanja S. Hartwig, Lene Werge, Steen Sørensen, Sacha Stormlund, Lisbeth Prætorius, Henrik L. Jørgensen, Anja Pinborg, and Finn S. Jørgensen, Fetal fraction of cell-free DNA in pregnancies after fresh or frozen embryo transfer following assisted reproductive technologies, Human Reproduction, pp. 1–9, 2020 doi:10.1093/humrep/deaa110
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phơi nhiễm bụi mịn trong môi trường xung quanh và chất lượng tinh dịch ở Đài Loan - Ngày đăng: 01-02-2021
Ảnh hưởng của phơi nhiễm bụi mịn lên chất lượng tinh dịch: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 01-02-2021
Ảnh hưởng của chuyển phôi ngày 7 lên kết cục sản khoa và chu sinh ở trẻ sinh sống sau chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 22-01-2021
Có nên điều trị cho phụ nữ có kháng thể tự miễn tuyến giáp? - Ngày đăng: 16-01-2021
ACETAMINOPHEN ĐƯỜNG TĨNH MẠCH HẠ SỐT TRONG CHUYỂN DẠ SINH – THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG NGẪU NHIÊN CÓ NHÓM CHỨNG - Ngày đăng: 14-01-2021
TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ KẾT CỤC CHU SINH CỦA COVID-19 TRONG THAI KỲ - Ngày đăng: 14-01-2021
ĐÁNH GIÁ KHUẨN HỆ NỘI MẠC TỬ CUNG: CƠ HỘI MỚI CHO HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI - Ngày đăng: 12-01-2021
THAI PHỤ MẮC COVID-19 CÓ THỂ LÂY TRUYỀN SANG TRẺ SƠ SINH TRONG LÚC SINH KHÔNG? - Ngày đăng: 12-01-2021
Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tiếp tục điều trị của phụ nữ hiếm muộn sau TTTON thất bại - Ngày đăng: 12-01-2021
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN PHÔI CỦA NỘI MẠC TỬ CUNG SAU THẤT BẠI LÀM TỔ NHIỀU LẦN - Ngày đăng: 08-01-2021
QUÁ TRÌNH BIỆT HÓA TẾ BÀO IN VITRO TỪ TẾ BÀO BUỒNG TRỨNG CỦA PHỤ NỮ MÃN KINH - Ngày đăng: 08-01-2021
Tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở 224 cặp vợ chồng sẩy thai liên tiếp - Ngày đăng: 08-01-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK