Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 04-10-2025 1:51am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CN. Mai Hoàng Lịch - Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng

  1. Giới thiệu

Việc nuôi cấy phôi và chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang đánh dấu một tiến bộ lớn trong thụ tinh trong ống nghiệm từ đó làm giảm số lượng phôi được chuyển, đồng thời cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống. Ngoài ra, việc đồng bộ giữa nội mạc tử cung và phôi nang dẫn đến tỷ lệ làm tổ cao hơn. Do đó, khi số lượng phôi nang tăng thì đồng thời số lượng phôi nang được đông lạnh sử dụng cho các chu kỳ chuyển phôi trữ cũng tăng. Việc đông lạnh phôi bằng thủy tinh hóa có tỷ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống cao hơn so với phương pháp đông lạnh chậm. Phương pháp thủy tinh hóa đơn giản, hiệu quả, không yêu cầu thiết bị chuyên dụng và hiện đang là phương pháp thay thế đông lạnh chậm.
Khi tiến hành thủy tinh hóa phôi nang, khoang phôi chứa lượng chất lỏng có thể gây ra sự hình thành tinh thể đá có khả năng gây thoái hóa phôi. Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc chủ động làm cho phôi nang co lại trước khi tiến hành thủy tinh hóa có thể giảm thiểu sự hình thành tinh thể đá, giảm tổn thương, cải thiện tỷ lệ sống của phôi nang khi rã đông và tăng tỷ lệ thai. Người ta đưa ra giả thuyết rằng việc không nở lại của phôi nang sau rã đông do các tế bào TE (trophectoderm) đã bị tổn thương trong quá trình đông lạnh và rã đông. Tổn thương do đông lạnh và rã đông làm tổn thương khung xương tế bào có tác động trực tiếp đến việc tiếp tục nguyên phân và làm tổ của phôi nang. Với sự gia tăng của các chu kỳ chuyển phôi trữ bằng phương pháp thủy tinh hóa kết hợp với sự thiếu các nghiên cứu về việc phôi nang không nở lại sau rã đông, từ đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá kết quả lâm sàng của phôi nang không nở lại trong vòng 2-4 giờ sau rã đông và phân tích các yếu tố liên quan đến thai lâm sàng ở chu kỳ chuyển phôi nang co lại hoàn toàn.

  1. Phương pháp

Nghiên cứu hồi cứu này tiến hành trên nhóm bệnh nhân chuyển đơn phôi từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 12 năm 2023 tại khoa Y học sinh sản thuộc bệnh viện 901st. Tổng cộng có 2324 chu kỳ chuyển phôi trữ được đưa vào nghiên cứu. Trong đó có 152 phôi nang không nở lại với 104 phôi nang được chuyển và 48 phôi nang bị loại do thoái hóa. Phân tích bao gồm 104 chu kỳ chuyển phôi nang co lại hoàn toàn và 2172 chu kỳ chuyển phôi nang nở lại, được phân loại dựa trên trạng thái nở lại của phôi nang trong vòng 2-4 giờ sau khi rã đông. Bệnh nhân trong nghiên cứu từ 21-49 tuổi với chẩn đoán vô sinh do yếu tố ống dẫn trứng, hội chứng buồng trứng đa nang, lạc nội mạc tử cung, yếu tố từ nam giới hoặc các nguyên nhân khác. Tiêu chí loại trừ bao gồm các tình trạng ảnh hưởng đến quá trình làm tổ như dính buồng tử cung, u xơ dưới niêm mạc, polyp tử cung hoặc bất thường nhiễm sắc thể.

  1. Kết quả

Kết quả lâm sàng của nhóm chuyển phôi nang co hoàn toàn trước và sau khi so sánh điểm xu hướng thì tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn (28,8% so với 59,3%, p < 0,001; 28,8% so với 61,5%, p < 0,001), tỷ lệ thai diễn tiến thấp hơn (22,1% so với 50,4%, p < 0,001; 22,1% so với 52,9%, p < 0,001) và tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hớn (20,2% so với 48,5%, p < 0,001; 20,2% so với 50,0%, p < 0,001) so với nhóm chuyển phôi nang đã nở lại. Bên cạnh đó tỷ lệ sẩy thai, tỷ lệ sinh non và sinh quá ngày thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm trên (p > 0.05).
Khi so sánh về chỉ số BMI, thời gian vô sinh, AMH, độ dày nội mạc tử cung và các nguyên nhân vô sinh ở nhóm mang thai và không mang thai trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang co hoàn toàn thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p > 0,05). Phôi ngày 3 và phôi ngày 5 có chất lượng tốt ở nhóm mang thai cao hơn so với không mang thai trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang co hoàn toàn lần lượt là (63,3% so với 32,4%, P = 0,004; 80,0% so với 50,0%, P = 0,005)

  1. Kết luận

Những phát hiện trong nghiên cứu hồi cứu này cho thấy rằng những phôi nang không thể nở lại trong vòng 2-4 giờ sau rã đông không nên được coi là không còn cơ hội hoặc đối với những phôi nang đã co lại hoàn toàn cũng có thể cho ra kết quả là mang thai và trẻ sinh sống. Tuy nhiên, chuyển phôi nang co lại hoàn toàn có tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn (28,8% so với 61,5%, p<0,001), tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hơn (20,2% so với 50%, p < 0,001) so với nhóm chuyển phôi nang đã nở lại.
Từ khóa: Phôi nang, thủy tinh hóa, co, thai lâm sàng, trẻ sinh sống
Tài liệu tham khảo:

Zhu, J., Yin, H., Wang, C. et al. The impact of completely shrunken blastocysts on clinical outcomes in vitrified-warmed single blastocyst transfer cycles. Sci Rep 15, 31882 (2025). https://doi.org/10.1038/s41598-025-17526-9


Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026

Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK