NHS. Lê Thị Thanh My
IVF Quốc Ánh, Bệnh viện Đa khoa Quốc Ánh
GIỚI THIỆU
Trong thập kỷ qua, chiến lược đông lạnh toàn bộ phôi (trữ phôi toàn bộ - TPTB) ngày càng được ưa chuộng tại các trung tâm IVF trên toàn cầu, đặc biệt ở Mỹ, thay thế dần phương pháp chuyển phôi tươi truyền thống. Xu hướng này cũng đang lan rộng tại Việt Nam, mặc dù thiếu bằng chứng từ các nghiên cứu quy mô lớn ở khu vực châu Á. Các chu kỳ chọc hút noãn hiện nay áp dụng TPTB, chủ yếu do các lợi ích như: (1) thuận tiện cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A), (2) giảm nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng (QKBT) và (3) tránh ảnh hưởng của môi trường nội tiết cao sau kích thích buồng trứng.
Tuy nhiên, tính ưu việt của TBTB vẫn gây tranh cãi. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ trẻ (≤37 tuổi) có đáp ứng buồng trứng tốt có thể không cần PGT-A, đồng thời các phác đồ kích thích hiện đại (sử dụng GnRH agonist trigger) đã giảm đáng kể nguy cơ QKBT. Hơn nữa, phân tích tổng hợp của Cochrane (2023) không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ sinh sống giữa hai phương pháp. Đáng chú ý, dù bằng chứng chưa rõ ràng, nhiều bác sĩ vẫn ưu tiên TBTB do tính linh hoạt trong quản lý chu kỳ điều trị.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chính là so sánh thời gian từ khi bắt đầu điều trị đến khi mang thai ở nhóm phụ nữ dưới hoặc bằng 37 tuổi có đáp ứng buồng trứng tốt (thu được từ 15 noãn trở lên) ở nhóm được chuyển phôi tươi và nhóm áp dụng phương pháp TPTB và chuyển phôi đông lạnh. Các mục tiêu phụ bao gồm đánh giá tỷ lệ sinh con sống, tỷ lệ sảy thai, tỷ lệ có thai lâm sàng, tỷ lệ QKBT, cân nặng trẻ sinh đơn thai và tỷ lệ sinh non (<37 tuần) và sinh rất non (<32 tuần).
PHƯƠNG PHÁP
Đây là một nghiên cứu có thiết kế hồi cứu, phân tích dữ liệu từ hệ thống báo cáo kết quả lâm sàng của SART (SARTCORS) giai đoạn 2014-2019. Nghiên cứu bao gồm tổng cộng 56.614 phụ nữ đáp ứng tiêu chí. Trong số đó, 35.058 phụ nữ (tuổi trung bình 31) được chuyển phôi tươi và 21.556 phụ nữ (tuổi trung bình 31) áp dụng TPTB và chuyển phôi đông lạnh.
KẾT QUẢ
-
Thời gian có thai: Nhóm chuyển phôi tươi thời gian có thai ngắn hơn đáng kể so với nhóm TPTB. Cụ thể, trung bình nhóm chuyển phôi tươi có thai sau 12,6 (20,6) tuần, trong khi nhóm đông lạnh toàn bộ là 20,8 (21,9) tuần. Chuyển phôi tươi giúp rút ngắn thời gian có thai khoảng 6-8 tuần (HR điều chỉnh: 1,66 [khoảng tin cậy (KTC) 95%: 1,62 – 1,69]; chênh lệch trung bình điều chỉnh: -8,1 tuần [KTC 95%: -8,64 đến -7,55]).
-
Tỉ lệ sinh sống và thai lâm sàng ban đầu: Mặc dù có thai nhanh hơn, tỷ lệ sinh sống trong lần chuyển phôi ban đầu ở nhóm chuyển phôi tươi thấp hơn (51,1%) so với nhóm TPTB (56%). Tương tự, tỷ lệ thai lâm sàng cũng thấp hơn ở nhóm chuyển phôi tươi (59% so với 66,2%).
-
Tỉ lệ QKBT: Một điều đáng chú ý là tỷ lệ QKBT mức độ trung bình hoặc nặng thấp hơn đáng kể ở nhóm chuyển phôi tươi (0,9%) so với nhóm TPTB (4,75%) (OR điều chỉnh: 0,15 [KTC 95%: 0,13 – 0,17]; chênh lệch nguy cơ điều chỉnh: -6% [KTC 95%: -7 đến -5]).
-
Số lượng noãn: mặc dù chuyển phôi tươi giúp rút ngắn thời gian có thai so với TPTB, nhưng xu hướng chênh lệch trung bình về thời gian (tính bằng tuần) giảm dần khi số lượng noãn thu được tăng lên. Ví dụ, ở nhóm noãn 15-19 (Nhóm A), chênh lệch là 9,1 tuần [KTC 95%: 7,3 đến 10,8], trong khi ở nhóm noãn ≥ 40 (Nhóm F), chênh lệch là 6,3 tuần [KTC 95%: -4,7 đến 17,5].
-
Các kết cục khác: Tỷ lệ sảy thai tích lũy: Thấp hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm chuyển phôi tươi (11%) so với nhóm TPTB (12,7%) (Tỷ số chênh (OR) điều chỉnh: 0,84 [KTC 95%: 0,79 – 0,89]; chênh lệch nguy cơ điều chỉnh: -2% [KTC 95%: -3 đến 0]); Cân nặng trẻ sinh đơn thai cao hơn ở nhóm TPTB. Cân nặng trung bình cao hơn có ý nghĩa thống kê ở trẻ sinh đơn thai từ chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (3318g) so với chuyển phôi tươi (3220g) (chênh lệch trung bình điều chỉnh: 69g [KTC 95%: -120 đến -17]); Tỷ lệ sinh non (<37 tuần): Không có sự khác biệt đáng kể (18,9% ở nhóm tươi so với 18,7% ở nhóm TPTB; OR điều chỉnh: 1,02 [KTC 95%: 0,95 – 1,1]); Tỷ lệ sinh rất non (<32 tuần): Không có sự khác biệt đáng kể (2,4% ở nhóm tươi so với 2,8% ở nhóm đông lạnh; OR điều chỉnh: 0,85 [KTC 95%: 0,71 – 1,01]).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này đã chứng minh rõ ràng rằng, đối với nhóm phụ nữ dưới 37 tuổi có đáp ứng buồng trứng tốt (thu được ≥ 15 noãn), chiến lược chuyển phôi tươi mang lại hai lợi ích lâm sàng quan trọng: (1) rút ngắn đáng kể thời gian đạt được thai kỳ (trung bình 6-8 tuần) so với phương pháp TPTB (p<0,001), và (2) duy trì tỷ lệ QKBT ở mức thấp (<2%) nhờ việc áp dụng các phác đồ KTBT hiện đại. Những phát hiện này củng cố vị thế của chuyển phôi tươi như một lựa chọn tối ưu, đặc biệt đối với những bệnh nhân ưu tiên rút ngắn thời gian điều trị.
Nguồn:
Jacobs E, Summers K, Sparks A, Van Voorhis B, Eapen A, TIME TO PREGNANCY IN YOUNG WOMEN WITH HIGH RESPONSE TO CONTROLLED OVARIAN STIMULATION UNDERGOING FRESH TRANSFER VERSUS A FREEZE ALL STRATEGY FOLLOWING IN-VITRO FERTILIZATION TREATMENT - A NATIONWIDE REGISTER BASED COHORT STUDY, F&S Reports (2025), doi: https://doi.org/10.1016/j.xfre.2025.07.002.












New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026
Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...