ThS. Nguyễn Huỳnh Cẩm Tú – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Vô sinh ảnh hưởng đến khoảng một trong sáu người trên toàn cầu, với tỷ lệ ngày càng gia tăng ở cả nam và nữ, khiến nhu cầu sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) ngày càng cao. Tuy nhiên, quá trình ART thường gây gánh nặng tâm lý lớn như lo âu và trầm cảm, đặc biệt ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Nhiều nghiên cứu (NC) cho thấy tỷ lệ cao trầm cảm, lo âu và căng thẳng cấp tính ở nhóm bệnh nhân này, nhấn mạnh sự cần thiết của việc tích hợp hỗ trợ sức khỏe tâm thần trong ART. Việc sử dụng thuốc hướng thần, dù phổ biến trong điều trị lâm sàng, vẫn gây nhiều tranh cãi do lo ngại ảnh hưởng đến kết quả ART, mặc dù bằng chứng hiện có chưa chứng minh tác động bất lợi rõ rệt. Đồng thời, thái độ xã hội đối với thuốc hướng thần đang thay đổi theo hướng cởi mở hơn. Trong bối cảnh đó, tổng quan phạm vi này được tiến hành nhằm hệ thống hóa bằng chứng hiện tại về việc sử dụng thuốc hướng thần ở người trải qua ART, qua đó xác định khoảng trống NC và định hướng cho thực hành lâm sàng trong y học sinh sản.
Phương pháp
NC tiến hành tổng quan phạm vi theo giao thức đăng ký trước (osf.io/egxw8/), tìm kiếm có hệ thống trên Ovid MEDLINE, Embase, CENTRAL, Web of Science, PsycInfo và Scopus đến ngày 15/02/2025. Hai nhà NC độc lập sàng lọc, trích xuất dữ liệu và giải quyết bất đồng qua tham khảo ý kiến của nhà NC thứ ba. Dữ liệu được tổng hợp bằng phân tích mô tả và phân tích theo nhóm phụ: (1) nhóm thuốc theo Danh pháp dựa trên thần kinh học; (2) chỉ định sử dụng thuốc (tâm thần hoặc phi tâm thần).
Kết quả
Đặc điểm các NC
Tìm kiếm hệ thống xác định được 7.767 tài liệu, sau khi loại trùng lặp còn 5.631. Sau sàng lọc tiêu đề, tóm tắt và toàn văn, tổng cộng 29 NC (31 bài báo) được đưa vào phân tích. Các NC này được công bố giai đoạn 1999–2023 với 746.659 người tham gia, trong đó 99,9% là phụ nữ (30–45 tuổi). Hầu hết đối tượng đều có chẩn đoán vô sinh, ngoại trừ một NC đang tiến hành trên 26 phụ nữ chuyển giới. Các NC được thực hiện tại nhiều quốc gia, nhiều nhất là Hoa Kỳ (32,1%).
Các thuốc hướng thần được ghi nhận 83 lần sử dụng, bao gồm: thuốc điều trị trầm cảm (45 lần; 54,2%), thuốc chống lo âu (16 lần; 19,3%), thuốc chống loạn thần (9 lần; 10,8%), thuốc ổn định khí sắc (5 lần; 6%) và nhóm khác (8 lần; 9,6%). Về thời điểm sử dụng, thuốc được kê chủ yếu trong quá trình ART (68,9%), ngoài ra trước ART (44,8%) và sau ART (24,1%). Một số NC không báo cáo rõ ràng thời điểm dùng thuốc.
Thuốc chống trầm cảm: các thuốc SSRI là nhóm được khảo sát nhiều nhất (51,7%), trong đó fluoxetine là thuốc phổ biến nhất (27,6%). Nhóm SNRI được NC ít hơn, với venlafaxine là đại diện chính. Ngoài ra còn có một số thuốc chống trầm cảm khác như sertraline, escitalopram, citalopram, paroxetine, mirtazapine, bupropion, amitriptyline và agomelatine.
Thuốc điều trị lo âu: nhóm GABA Positive Allosteric Modulators được sử dụng nhiều nhất, với midazolam là thuốc phổ biến nhất. Ngoài ra, các benzodiazepine khác như diazepam, temazepam, oxazepam, clonazepam và lorazepam cũng được báo cáo.
Thuốc chống loạn thần: một số thuốc được ghi nhận gồm olanzapine, clozapine, risperidone, quetiapine, aripiprazole, haloperidol và promethazine. Mỗi loại chỉ xuất hiện trong một NC.
Thuốc phòng ngừa tái phát: gồm valproic acid, lithium và lamotrigine.
Thuốc khác liên quan đến các tình trạng đặc biệt như rối loạn giấc ngủ, rối loạn sử dụng opioid hoặc gây mê, với các thuốc như zolpidem, flumazenil, ketamine, naloxone, methadone và một số thuốc ngủ/thuốc an thần không xác định.
Chỉ định sử dụng thuốc trong các NC được chia thành 2 nhóm: tâm thần và phi tâm thần. Thuốc thường được kê để điều trị trầm cảm, lo âu, rối loạn lưỡng cực, mất ngủ và một số rối loạn khí sắc hoặc loạn thần khác, song nhiều NC không nêu rõ chỉ định cụ thể. Ngoài ra, thuốc hướng thần còn được dùng cho mục đích phi tâm thần như an thần, tiền mê, giảm đau khi chọc hút noãn hoặc xử trí thất bại xuất tinh.
Các NC báo cáo liều dùng và thời gian điều trị của một số thuốc, tuy nhiên tình trạng thiếu dữ liệu khá phổ biến. Tổng cộng có 43 trường hợp không ghi nhận liều lượng, bao gồm nhiều loại thuốc chống trầm cảm (SSRI, citalopram, fluoxetine, sertraline, escitalopram, paroxetine, venlafaxine, nefazodone, clomipramine, amitriptyline, mirtazapine, duloxetine, bupropion), thuốc phòng ngừa tái phát (lithium, valproic acid, lamotrigine), cũng như một số thuốc an thần, chống loạn thần và benzodiazepine. Một số thuốc có dữ liệu liều cụ thể, ví dụ: haloperidol (0,5 mg × 3 lần/tuần), aripiprazole (25 mg/ngày), fluoxetine (20–60 mg, từ 26 ngày đến nhiều năm), sertraline (10–50 mg ít nhất 6 tháng), hoặc escitalopram (5–10 mg, dùng ít nhất 30 ngày trước và trong chu kỳ IVF). Đối với benzodiazepine, clonazepam (0,5 mg × 2 lần/ngày trong 3 tuần), midazolam (7,5 mg uống, 2–5 mg tiêm tĩnh mạch, 5 mg tiêm bắp), diazepam (10–20 mg), cùng một số thuốc khác như temazepam, oxazepam và lorazepam cũng được báo cáo.
Kết cục NC
Liên quan đến ART: hầu hết các NC (26/29) không đánh giá các chỉ số tinh dịch. Chỉ có 2 NC báo cáo các thông số như tổng số tinh trùng di động ban đầu và cuối, thể tích tinh dịch, nồng độ và độ di động. Ngoài ra, một số NC báo cáo kết cục về chu kỳ như số noãn thu được, số noãn chọc hút, hoặc thời gian thực hiện chọc hút noãn dưới siêu âm.
Hiệu quả ART: các kết cục thường gặp nhất bao gồm tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ có thai (10 NC). Một số NC khác ghi nhận số phôi được sinh thiết, tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ tạo phôi nang, số phôi đạt chất lượng cao hoặc tỷ lệ hợp tử phát triển đến giai đoạn 8 tế bào.
Liên quan đến thai kỳ và sinh: một số NC báo cáo tỷ lệ sinh sống (6 NC), tỷ lệ đa thai (1 NC) và tỷ lệ sảy thai hoặc sảy thai sớm (3 NC).
Liên quan đến sức khỏe tâm thần: các kết cục thường được sử dụng nhất là mức độ triệu chứng tâm thần (lo âu, trầm cảm, loạn thần). Ngoài ra, một số NC ghi nhận các chỉ số khác như mức độ an thần, sự hài lòng của bệnh nhân, nồng độ cortisol và TNF-α, tỷ lệ tái phát, tác dụng phụ, hoặc thời gian đạt mức hồi phục lâm sàng.
Thảo luận
Tóm lược kết quả chính
NC này nhằm tổng hợp bằng chứng về việc sử dụng thuốc hướng thần ở bệnh nhân trải qua ART. Các NC được đưa vào trải dài hơn hai thập kỷ, chủ yếu có nguồn tài trợ phi công nghiệp, với thiết kế NC đa dạng và tổng cộng gần 750.000 người tham gia, đa phần là phụ nữ trong độ tuổi 30–45. Tuy nhiên, số lượng lớn này chủ yếu do một số NC trên cơ sở dữ liệu quy mô lớn, trong khi cỡ mẫu trung vị chỉ 74, cho thấy nhiều NC có quy mô nhỏ.
Các phương pháp ART được khảo sát nhiều nhất là thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (intracytoplasmic sperm injection - ICSI), áp dụng cho nhiều nguyên nhân vô sinh khác nhau. Việc sử dụng thuốc hướng thần chủ yếu nhằm điều trị trầm cảm và rối loạn lo âu, trong đó nhóm SSRI là phổ biến nhất, đặc biệt là fluoxetine.
Ngoài chỉ định tâm thần, thuốc hướng thần cũng được sử dụng cho các mục đích khác như an thần trong thủ thuật. Nhìn chung, các chỉ định tâm thần được mô tả khá rộng, và thuốc thường thuộc nhóm điều trị bậc một hoặc bậc hai. Đáng chú ý, liều dùng được ghi nhận có xu hướng thấp hơn so với chuẩn thông thường.
Các kết cục NC được báo cáo phổ biến nhất là hiệu quả ART (tỷ lệ thụ tinh, có thai, sinh sống) và mức độ triệu chứng tâm thần (lo âu, trầm cảm, loạn thần).
Mức độ hoàn chỉnh, khả năng ứng dụng của bằng chứng và các khoảng trống NC
Bằng chứng hiện tại về việc sử dụng thuốc hướng thần trong ART còn hạn chế, phân mảnh và khó khái quát hóa do cỡ mẫu nhỏ, thiết kế không đồng nhất và thiếu dữ liệu về liều lượng, thời gian dùng thuốc cũng như kết cục dài hạn. Mặc dù kết quả bước đầu gợi ý tính an toàn, mức độ bằng chứng chưa đủ mạnh để đưa ra khuyến nghị lâm sàng chắc chắn. Các khoảng trống quan trọng bao gồm thiếu NC trên nam giới, bệnh nhân chuyển giới và dữ liệu về thai kỳ, sức khỏe tâm thần cũng như trẻ sinh ra từ ART, nhấn mạnh nhu cầu về các NC quy mô lớn và theo dõi dài hạn.
Kết luận
Tổng quan phạm vi này cho thấy việc sử dụng thuốc hướng thần ở bệnh nhân ART khá đa dạng về chỉ định và loại thuốc, nhưng bằng chứng hiện có còn hạn chế và không đồng nhất. Dù các dữ liệu bước đầu không cho thấy tác động bất lợi rõ rệt lên kết cục sinh sản hay thai kỳ, song mức độ chứng cứ chưa đủ để khẳng định tính an toàn và hiệu quả trong lâm sàng. Các khoảng trống NC đáng chú ý gồm thiếu dữ liệu về nam giới, bệnh nhân chuyển giới, liều lượng và thời gian dùng thuốc, cũng như tác động lâu dài đến sức khỏe tâm thần và thế hệ con. Do đó, cần có thêm các NC quy mô lớn, thiết kế chặt chẽ và theo dõi dài hạn để cung cấp cơ sở vững chắc cho khuyến nghị lâm sàng trong y học sinh sản.
Từ khóa: tổng quan phạm vi, vô sinh, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, thuốc hướng thần, thụ tinh trong ống nghiệm, tiêm tinh trùng vào bào tương trứng
Tài liệu tham khảo: Dawid S, Paweł J, Dominika A, Zuzanna S. Psychopharmacological interventions among people who use Assisted Reproductive Technology (ART) - a scoping review. Reprod Biol Endocrinol. 2025 May 10;23(1):65. doi: 10.1186/s12958-025-01400-4. PMID: 40349037; PMCID: PMC12065253.











New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026
Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...