Kỹ sư Nguyễn Thị Nguyệt
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng
Chuyển một phôi (single embryo transfer – sET) đã được khuyến nghị là “thực hành tốt nhất” bởi các phòng khám và hiệp hội chuyên môn trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology – ART) trên toàn cầu. Việc áp dụng rộng rãi sET đã giúp giảm tỷ lệ đa thai mà không làm giảm tỷ lệ sinh sống. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy mối liên quan giữa phân chia phôi đơn hợp tử (monozygotic – MZ) và sET, đặc biệt là chuyển một phôi nang (single blastocyst embryo transfer – sBET). Bài báo này trình bày hai trường hợp thai ba MZ sau sBET, qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ dịch tễ học và cơ chế tiềm năng dẫn đến phân chia MZ sau sBET.
Trường hợp 1
-
Bệnh nhân nữ, 29 tuổi, có tiền sử hội chứng buồng trứng đa nang (Polycystic Ovarian Syndrome – PCOS), tử cung đơn giác (Unicornuate Uterus) và thất bại 4 chu kỳ bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine Insemination – IUI)
-
Bệnh nhân tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization – IVF) theo phác đồ đối kháng hormone giải phóng gonadotropin (Gonadotropin-Releasing Hormone Antagonist – GnRH-ant).
-
Thu nhận được 23 noãn, trong đó 19 noãn trưởng thành; 15 noãn được thụ tinh bằng tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic Sperm Injection – ICSI).
-
Mười hai phôi nang ngày 5 được xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội (Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidy – PGT-A), tất cả đều nguyên bội (euploid).
-
Hai chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (Frozen Embryo Transfer – FET) đầu tiên thất bại.
-
Ở chu kỳ thứ ba, một phôi nang nguyên bội được chuyển sau giai đoạn chuẩn bị niêm mạc tử cung bằng GnRH-agonist (GnRH-a), estradiol đường uống và progesterone dạng dầu.
-
Xét nghiệm β-hCG sau 10 ngày cho kết quả dương tính. Siêu âm đầu dò âm đạo (Transvaginal Ultrasonography – TVUS) ở tuần thai thứ 6 phát hiện 3 túi thai trong tử cung; chỉ có 2 túi có cực phôi và túi noãn hoàng.
-
Hai tuần sau, hai thai phát triển phù hợp, túi thai thứ ba thoái triển tự nhiên.
-
Do nguy cơ biến chứng sản khoa cao liên quan đến tử cung đơn giác, bệnh nhân quyết định giảm thai chọn lọc (Selective Fetal Reduction – SFR) một thai, và sinh một bé khỏe mạnh ở tuần thai thứ 36.
Trường hợp 2
-
Bệnh nhân nữ 34 tuổi thực hiện chu kỳ chuyển phôi đông lạnh lần hai ( FET).
-
Trước đó, bệnh nhân tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization – IVF) với phác đồ đối vận GnRH (Gonadotropin-Releasing Hormone antagonist – GnRH-ant) do chồng có tinh trùng ít, yếu (oligoasthenozoospermia: mật độ 6,5 triệu tinh trùng /mL, độ di động 7,1%).
-
Có 21 noãn được chọc hút, 18 noãn trưởng thành được trữ lạnh vì không lấy được mẫu tinh trùng vào ngày chọc hút.
-
Một tháng sau, toàn bộ noãn được rã đông và ICSI với tinh trùng tươi; tạo được 6 phôi nang trữ lạnh (5 ngày 5, 1 ngày 6).
-
Một phôi chưa xét nghiệm di truyền tiền làm tổ được chuyển vào chu kỳ FET có dùng nội tiết tố, dẫn đến sinh sống một bé gái.
-
Trong chu kỳ FET lần hai không dùng nội tiết, phóng noãn tự nhiên xảy ra vào ngày thứ 17 với nang trội 19 mm, sau đó tiêm hCG (Human Chorionic Gonadotropin – hCG) và chuyển một phôi ngày 6.
-
Kết quả thử thai dương tính sau 9 ngày.
-
Siêu âm đầu dò (Transvaginal Ultrasound – TVUS) ở tuần 9 ghi nhận thai ba: một cặp song thai một bánh hai ối (Monochorionic Diamniotic – MCDA) và một thai đơn, tất cả đều có tim thai.
-
Bệnh nhân từ chối giảm thai có chọn lọc (Selective Fetal Reduction – SFR). Trong thai kỳ, song thai diễn tiến bình thường, nhưng thai đơn bị hạn chế tăng trưởng trong tử cung (Intrauterine Growth Restriction – IUGR) tháng thứ 3 thai kỳ.
-
Sản phụ sinh mổ ở tuần 35, kết quả là ba trẻ sống nặng 2310g, 2230g, và 1280g.
Kết luận
-
Trường hợp mang thai đa thai sau chuyển một phôi (single embryo transfer – sET) trước đây thường được quy kết do quan hệ tình dục không an toàn trong thời gian làm thụ tinh trong ống nghiệm hoặc chuyển phôi trữ lạnh, dẫn đến thụ thai tự nhiên đồng thời.
-
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các trường hợp đa thai sau sET trong các chu kỳ FET – chu kỳ có quá trình rụng trứng tự nhiên được ức chế – đã bác bỏ giả thuyết này.
-
Báo cáo hiện tại bổ sung thêm bằng chứng về các ca sinh ba đơn hợp tử (MZ) sau chuyển phôi giai đoạn phân cắt hoặc chuyển một phôi giai đoạn phôi nang (sBET).
-
Tỷ lệ phân tách phôi MZ sau sBET cao hơn so với thai kỳ tự nhiên (0,4%) và được ghi nhận dao động từ 0,7%–5% trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản.
-
Tại trung tâm nghiên cứu, trong 5904 ca sET từ 2020–2024, có 1,6% dẫn đến song thai và không có ca sinh ba nào trước báo cáo này.
-
Các nghiên cứu quốc tế cho thấy tỷ lệ sinh ba MZ sau sBET dao động từ 0,04%–0,3%, với nguy cơ phân tách MZ tăng cao hơn khi sử dụng sBET so với chuyển phôi giai đoạn phân cắt (OR 2,2; KTC 95%).
-
Cơ chế sinh học của hiện tượng này được cho là do sự phân chia khối tế bào bên trong (inner cell mass – ICM) hoặc thay đổi bất thường trong màng trong suốt (zona pellucida – ZP).
-
Mặc dù vậy, chưa có mô hình lý tưởng nào để giải thích toàn diện cơ chế phân tách MZ sau sBET, đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm phôi và các yếu tố kỹ thuật trong phòng lab.
Nguồn tham khảo
Woods, A., Lindheim, S.R., Kothari, S. et al. Triplet pregnancies after single blastocyst embryo transfer-how often and why do these occur?. J Assist Reprod Genet (2025). https://doi.org/10.1007/s10815-025-03593-4.












New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026
Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...