Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 23-09-2025 12:25am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. Nguyễn Thị Thanh Tâm
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng

Công nghệ hỗ trợ sinh sản đã mang đến nhiều cơ hội có thai và sinh con cho nhiều cặp vợ chồng vô sinh. Nhiều kỹ thuật khác nhau đã giúp tăng tỷ lệ mang thai, trẻ sinh sống và các kết quả khác. Một trong những kỹ thuật này liên quan đến việc sử dụng huyết tương giàu tiểu cầu (Platelet rich plasma - PRP), là tiểu cầu tự thân trong huyết tương, chứa nhiều cytokine và các yếu tố tăng trưởng có thể tái tạo và thúc đẩy sự tăng sinh tế bào ở các mô bị tổn thương. Liệu pháp PRP đã được sử dụng trong các thử nghiệm trên động vật và người. Đặc biệt ở những phụ nữ bị vô sinh liên quan đến nội mạc tử cung (NMTC) và buồng trứng. Ngoài ra, các nghiên cứu liên quan đến những bệnh nhân thất bại làm tổ cũng cho thấy phương pháp điều trị PRP giúp tăng tỷ lệ mang thai. 
Các nghiên cứu trước đây đã nhấn mạnh tầm quan trọng của điều kiện nuôi cấy ảnh hưởng đến chất lượng và sự phát triển của phôi. Một số nghiên cứu trên mô hình động vật đã chứng minh việc thêm các chất bổ sung khác nhau vào môi trường nuôi cấy đã cải thiện sự trưởng thành noãn và chất lượng phôi.
Trong nghiên cứu này, tìm hiểu việc bổ sung PRP tự thân vào môi trường nuôi cấy trong quá trình nuôi cấy phôi có thể ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển, chất lượng và tốc độ khi đông lạnh phôi ở người hay không. Ngoài ra, nhằm nghiên cứu xem biểu hiện cytokine có khác nhau giữa các mẫu huyết tương giàu tiểu cầu từ bệnh nhân có phôi chất lượng cao so với thấp hay không thông qua bộ kit cytokine.
Đây là nghiên cứu hồi cứu, bao gồm những bệnh nhân vô sinh đã trải qua các đợt điều trị IVF liên tiếp tại một trung tâm duy nhất, từ năm 2021 đến năm 2024. Nghiên cứu bao gồm 175 chu kỳ với 123 bệnh nhân. Tiêu chuẩn chọn: các chu kỳ IVF trước đó cho thấy phôi phát triển ở giai đoạn phân chia, phôi nang có chất lượng kém và không có phôi nào có thể sử dụng được.
Tất cả bệnh nhân nữ được đánh giá dự trữ buồng trứng (anti-Müllerian hormone  - AMH) trong vòng 1-3 tháng trước khi kích thích buồng trứng và số lượng nang thứ cấp (antral follicle count - AFC). Trong nghiên cứu này, được phân loại dựa trên tuổi mẹ, AMH (không bao gồm AFC) và được chia thành 4 nhóm nhỏ: < 35 tuổi và AMH ≥ 1,2 ng/mL (nhóm 1), ≥ 35 tuổi và AMH ≥ 1,2 ng/mL (nhóm 2), < 35 và AMH < 1,2 ng/mL (nhóm 3), ≥ 35 và AMH < 1,2 ng/mL (nhóm 4)
Chuẩn bị PRP tự thân được thu nhận từ chính bệnh nhân điều trị và chẩn đoán không mắc bệnh về máu. Thực hiện bằng cách thu 14ml máu tĩnh mạch và ly tâm ở tốc độ 3500 vòng/phút trong 5 phút. Sau ly tâm mẫu được tách thành 3 lớp: dịch nổi, lớp đệm trung gian và lớp tế bào hồng cầu. Sử dụng kim tiêm 1ml, 18-G thu PRP ở lớp trung gian. Sau đó điều chỉnh đến thể tích cuối cùng là 1ml trong ống nghiệm 5ml. PRP được thêm vào môi trường nuôi cấy phôi để đánh giá tác động của nó đến chất lượng phôi. Các mẫu PRP tự thân được sử dụng trong nghiên cứu này cho kết quả trung bình là 704 ± 248 × 103 tế bào/μL. Phôi được nuôi cấy trong môi trường nuôi cấy phôi có phủ dầu ở điều kiện 37oC, 6% CO2, 5% O2 và 89% N2. Trong các chu kỳ bổ sung PRP tự thân, PRP được chuẩn bị và trộn với môi trường nuôi cấy và ủ ở 48 giờ để thúc đẩy sự phát triển của phôi từ giai đoạn 2PN đến giai đoạn phôi phân chia.
Phôi được đánh giá theo đồng thuận ESHRE/ALPHA Istanbul. Đo lường cytokine bằng cytokine XL của người và phân tích hình ảnh. Mẫu PRP tự thân được phân tích bằng bộ dụng cụ Proteome Profiler Human XL Cytokine Array bao gồm 105 kháng thể được cố định trên màng nitrocellulose. Hình ảnh mảng cytokine Immuno-spots được phân tích bằng máy quét kỹ thuật số Amersham Imager 680 và dữ liệu được xử lý bằng công cụ QuicK Spot. Phân tích thống kê bằng JMOVI hoặc IBM SPSS Statistics. Kiểm định chi bình phương để so sánh các biến định tính và kiểm định T cho các biến định lượng.
Kết quả:
  • Kiểm tra nồng độ tiểu cầu sau chuẩn bị PRP, phân loại theo tiêu chuẩn POSEIDON không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ tiểu cầu giữa các nhóm (p=0,350).
  • So sánh sự phát triển phôi giữa nhóm PRP và nhóm đối chứng:
  • Không có sự khác biệt giữa số lượng noãn thu được (0,7 ± 5,96 so với 11,0 ± 7,06, p  = 0,311) và phôi đã thụ tinh (6,05 ± 3,78 so với 6,29 ± 4,39, p  = 0,074).
  • Cải thiện chất lượng phôi đáng kể (8 tế bào 48,2% so với 28,7%, p  = 0,001; phôi nang 65,9% so với 51,5%, p  = 0,040).
  • Nhóm PRP cho thấy tỷ lệ phôi có thể sử dụng cao hơn đáng kể (21,4%, 15,8%, p  = 0,001), tỷ lệ phôi nang chất lượng cao (44,0%, 17,6%, p  = 0,001).
  • Do số lượng bệnh nhân <35 tuổi hạn chế nên những bệnh nhân thuộc nhóm 2 và 4 mới được phân tích sự phát triển phôi.
Nhóm 2:
Tỷ lệ phôi có thể sử dụng tăng đáng kể (19,6%, 15,3%, p  = 0,027)
Tỷ lệ phôi nang chất lượng cao (39,1%, 16,7%, p=0,001).
Nhóm 4:
Tỷ lệ phôi có thể sử dụng tăng đáng kể (23,9%, 15,8%, p=0,02)
Tỷ lệ phôi chất lượng cao, không có sự thay đổi mang ý nghĩa thống kê (phôi phân chia: 12,3%, 25,6%, p=0,087; phôi nang: 42,1%, 25,6%, p=0,086).
  • So sánh mức độ biểu hiện của cytokine trong PRP:
  • Trong số 105 protein được thực hiện, 43 protein cho thấy sự khác biệt ít nhất 0,5 lần về mức độ biểu hiện giữa nhóm phát triển phôi thành công và không thành công.
  • 28 protein có sự khác biệt hơn 100% ở nhóm phát triển phôi chất lượng cao. Sự khác biệt đáng kể được tìm thấy trong phối tử FMS-like tyrosine kinase 3 (Flt-3) (28,10 ở phôi chất lượng cao và 498,99 ở phôi chất lượng thấp), Interleukin 23 (IL) (208,94 ở phôi chất lượng cao và -405,13 ở phôi chất lượng thấp), monocyte chemoattractant protein-3 (MCP-3) (304,23 ở phôi chất lượng cao và 295,80 ở phôi chất lượng thấp), urokinase plasminogen activation receptor (uPAR) (472,98 ở phôi chất lượng cao và 1147,51 ở phôi chất lượng thấp) với p<0,005.
Hạn chế của nghiên cứu này là mật độ bạch cầu và hồng cầu trong PRP chưa được đánh giá, điều này có thể ảnh hưởng đến các đặc tính của PRP. Ngoài ra, hạn chế của nghiên cứu này là quy mô nhỏ và khả năng sai lệch cũng như những hạn chế trong thiết kế hồi cứu. Bên cạnh đó, để làm rõ tác dụng của PRP trong môi trường nuôi cấy phôi, cần có thêm các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên trên người với quy mô lớn..
Nghiên cứu này có giá trị đối với những bệnh nhân có tiên lượng kém, cho thấy kết quả phát triển phôi được cải thiện. Điều này mang đến cơ hội cho những bệnh nhân lớn tuổi đã nhiều lần thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm nhưng thất bại.
 
   
Tài liệu tham khảo
Bài báo nghiên cứu: Rhee, Y.J., Park, J.K., Ahn, SY. et al. The use of autologous platelet-rich plasma in embryo culture to obtain high-quality embryos. Sci Rep 15, 26025 (2025). https://doi.org/10.1038/s41598-025-07688-x



Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026

Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK