Tin tức
on Sunday 11-05-2025 1:51am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trịnh Thị Thùy Trang – IVF Vạn Hạnh
Số lượng chu kỳ thực hiện công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) tăng liên tục mỗi năm, với hơn 2,5 triệu chu kỳ trên toàn thế giới vào năm 2019. Hiệu quả của ART ngày càng được cải thiện đáng kể, nhiều phôi chất lượng tốt hơn được tạo ra trong mỗi chu kỳ, do đó số lượng phôi cần chuyển để có trẻ sinh sống ít hơn. Tỷ lệ chu kỳ chuyển đơn phôi ở Hoa Kỳ đã tăng từ 18,2% vào năm 2010 lên 77,3% vào năm 2019. Do đó, những phôi chất lượng tốt không được chuyển thường được bảo quản đông lạnh để sử dụng sau này. Tuy nhiên, nhiều phôi trong số này cuối cùng không được sử dụng. Trong một phân tích về hơn 400.000 chu kỳ ART tại Hoa Kỳ từ năm 2004 đến năm 2013, 1.954.548 phôi đã được bảo quản đông lạnh và hơn 1,2 triệu phôi trong số đó đã không được chuyển. Bệnh nhân phải lựa chọn giữa việc loại bỏ phôi, hiến tặng phôi cho phòng thí nghiệm phôi học để phục vụ mục đích giảng dạy, hiến tặng phôi cho bệnh nhân khác hoặc trả tiền để lưu trữ phôi vô thời hạn.
Phôi đông lạnh dư thừa cũng đang là một vấn đề cần giải quyết cho các trung tâm ART. Khi số lượng phôi đông lạnh tăng lên, các trung tâm phải đối mặt với những căng thẳng về vận hành và tài chính khi phải lưu trữ phôi vô thời hạn trong khi gặp nhiều khó khăn trong việc liên lạc với bệnh nhân để đồng thuận về cách xử lý.
Hơn nữa tại Hoa Kỳ, nhiều khu vực đang xem xét "Luật về nhân cách" (Personhood Legislation) nhằm xác định thời điểm bắt đầu sự sống của con người khi thụ tinh. Nếu điều này xảy ra, các trung tâm ART có thể gặp các rủi ro về pháp lý tiềm ẩn liên quan đến việc xử lý hoặc loại bỏ phôi thai dư thừa. Những lo ngại này có thể có tác động đáng kể đến cách vận hành ART và hạn chế việc tạo phôi do những tác động pháp lý tiềm ẩn.
Một chiến lược để hạn chế số lượng phôi dư thừa là kiểm soát số lượng phôi được tạo ra ngay từ đầu. Điều này có thể thực hiện bằng cách hạn chế số lượng noãn kết hợp với tinh trùng và đông lạnh hoặc loại bỏ các noãn chưa sử dụng. Theo quy trình hiện tại, các trung tâm vẫn đang tạo phôi từ tất cả các noãn thu nhận được (bằng phương pháp thụ tinh thông thường hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn) trong chu kỳ ART, vì hiện tại không có phương pháp nào có thể xác định số lượng noãn cần sử dụng để tối ưu hóa kết quả cho bệnh nhân. Tất nhiên, không phải tất cả các noãn kết hợp với tinh trùng đều tạo ra phôi hữu dụng và không phải tất cả các lần chuyển phôi đều dẫn đến sinh con sống.
Để đáp ứng và giải quyết tình hình hiện tại, nghiên cứu này đã phát triển một công cụ dự đoán số lượng noãn tối ưu cần sử dụng để thụ tinh với tinh trùng tạo ra phôi nhằm đảm bảo cơ hội sinh con sống đồng thời giảm thiểu phôi dư thừa.
Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ các phòng khám thuộc Hệ thống báo cáo kết quả lâm sàng của Hiệp hội công nghệ hỗ trợ sinh sản (SART- Society for Assisted Reproductive Technology) từ năm 2014 đến năm 2019. Những bệnh nhân bắt đầu chu kỳ kích thích đầu tiên của họ trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2014 đến ngày 31 tháng 12 năm 2019 và đã lấy được ít nhất 1 noãn đủ điều kiện để đưa vào nghiên cứu. Các chu kỳ sử dụng noãn của người hiến tặng hoặc người mang thai hộ, có ý định sử dụng hoặc đã sử dụng sàng lọc di truyền trước khi làm tổ đã bị loại trừ.
Thuật toán dựa trên 3 mô hình với kết quả: (1) Ngày chuyển phôi (ngày 3 hoặc ngày 5), (2) tỷ lệ noãn được sử dụng để tạo thành phôi nang hữu dụng (3) số lượng phôi nang cần thiết để chuyển phôi cho 1 ca sinh sống. Các yếu tố cơ sở được đưa vào chẩn đoán bao gồm nhóm tuổi của bệnh nhân nữ, vị trí địa lý của phòng khám, mức độ hormone anti-Mullerian (AMH), chẩn đoán giảm dự trữ buồng trứng và số lượng noãn được thu nhận.
Tổng cộng có 410.719 lần lấy noãn và 460.577 chu kỳ chuyển phôi từ 311.237 bệnh nhân từ 18 đến 45 tuổi bắt đầu chu kỳ kích thích trứng đầu tiên. Độ tuổi trung bình (IQR) khi bắt đầu chu kỳ kích thích là 35 (29-32) tuổi và số lượng trung bình (IQR) noãn lấy được là 10 (6-17). Các lý do phổ biến nhất cho ART là rối loạn rụng trứng (154.612 [37,6%]) và vô sinh do yếu tố nam giới (142.149 [34,6%]). Phần lớn các ca chuyển phôi (365.630 [73,2%]) diễn ra vào ngày 5 trở lên, và 167.837 (69,7%) chu kỳ chuyển phôi hoặc đông lạnh phôi nang vào ngày 5.
Nhìn chung, 43,4% số ca lấy noãn trong quần thể nghiên cứu được dự đoán là chuyển phôi vào ngày 3 và trên cơ sở đó, khuyến cáo nên cho tất cả các noãn tiếp xúc với tinh trùng. 57,6% số chu kỳ còn lại được dự đoán là chuyển phôi vào ngày 5 tiến tới giai đoạn tiếp theo để ước tính số lượng noãn tiếp xúc với tinh trùng. Trong số những bệnh nhân dự kiến chuyển phôi vào ngày 5, số lượng noãn trung bình (IQR) tiếp xúc với tinh trùng cho 1 ca sinh sống là 7 (7-8) noãn đối với những bệnh nhân dưới 32 tuổi, 8 (7-8) noãn đối với những bệnh nhân từ 32 đến 34 tuổi và 9 (9-11) noãn đối với những bệnh nhân từ 35-37 tuổi.
Ngoài ra, 196.268 (47,8%) chu kỳ chọc hút trong quần thể nghiên cứu cho thấy số noãn cần để thụ tinh ít noãn hơn số noãn lấy được. Con số này thay đổi theo độ tuổi, nhiều hơn 77.761 (80,0%) đối với bệnh nhân dưới 32 tuổi và 724 (<2,0%) đối với bệnh nhân từ 41 đến 42 tuổi. Nếu tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu sử dụng công cụ tính này, thì sẽ có ít hơn 990.394 noãn được sử dụng để thụ tinh với tinh trùng.
Các tác giả đã phát triển một trang web tương tác (https://katharine-correia.shinyapps.io/art_fert_prediction_tool/) hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân để tính toán số lượng noãn cần sử dụng theo thuật toán này. Công cụ tương tác này cũng tính đến số lượng trẻ em mong muốn có được từ một chu kỳ kích noãn duy nhất và một hoặc nhiều lần mang đơn thai bằng cách nhân dự đoán cuối cùng với số lượng trẻ em mong muốn.
Nghiên cứu này được đưa ra nhằm mục đích hạn chế số lượng phôi dư thừa được tạo ra thông qua việc kiểm soát số lượng noãn sử dụng để kết hợp với tinh trùng.Trong tương lai, việc sử dụng công cụ này sẽ mở ra hướng nghiên cứu xác định các đặc điểm của noãn để tạo thành phôi chất lượng tốt hơn, cho phép thuật toán không chỉ dự đoán số lượng noãn mà còn dự đoán noãn nào sẽ được sử dụng.
TLTK: Katharine F B Correia, Stacey A Missmer, Rachel Weinerman, Elizabeth S Ginsburg, Brooke V Rossi. Development of a Model to Estimate the Optimal Number of Oocytes to Attempt to Fertilize During Assisted Reproductive Technology Treatment. 2023 Jan 3;6(1):e2249395. doi: 10.1001/jamanetworkopen.2022.49395. PMCID: PMC9857446 PMID: 36595292
Số lượng chu kỳ thực hiện công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) tăng liên tục mỗi năm, với hơn 2,5 triệu chu kỳ trên toàn thế giới vào năm 2019. Hiệu quả của ART ngày càng được cải thiện đáng kể, nhiều phôi chất lượng tốt hơn được tạo ra trong mỗi chu kỳ, do đó số lượng phôi cần chuyển để có trẻ sinh sống ít hơn. Tỷ lệ chu kỳ chuyển đơn phôi ở Hoa Kỳ đã tăng từ 18,2% vào năm 2010 lên 77,3% vào năm 2019. Do đó, những phôi chất lượng tốt không được chuyển thường được bảo quản đông lạnh để sử dụng sau này. Tuy nhiên, nhiều phôi trong số này cuối cùng không được sử dụng. Trong một phân tích về hơn 400.000 chu kỳ ART tại Hoa Kỳ từ năm 2004 đến năm 2013, 1.954.548 phôi đã được bảo quản đông lạnh và hơn 1,2 triệu phôi trong số đó đã không được chuyển. Bệnh nhân phải lựa chọn giữa việc loại bỏ phôi, hiến tặng phôi cho phòng thí nghiệm phôi học để phục vụ mục đích giảng dạy, hiến tặng phôi cho bệnh nhân khác hoặc trả tiền để lưu trữ phôi vô thời hạn.
Phôi đông lạnh dư thừa cũng đang là một vấn đề cần giải quyết cho các trung tâm ART. Khi số lượng phôi đông lạnh tăng lên, các trung tâm phải đối mặt với những căng thẳng về vận hành và tài chính khi phải lưu trữ phôi vô thời hạn trong khi gặp nhiều khó khăn trong việc liên lạc với bệnh nhân để đồng thuận về cách xử lý.
Hơn nữa tại Hoa Kỳ, nhiều khu vực đang xem xét "Luật về nhân cách" (Personhood Legislation) nhằm xác định thời điểm bắt đầu sự sống của con người khi thụ tinh. Nếu điều này xảy ra, các trung tâm ART có thể gặp các rủi ro về pháp lý tiềm ẩn liên quan đến việc xử lý hoặc loại bỏ phôi thai dư thừa. Những lo ngại này có thể có tác động đáng kể đến cách vận hành ART và hạn chế việc tạo phôi do những tác động pháp lý tiềm ẩn.
Một chiến lược để hạn chế số lượng phôi dư thừa là kiểm soát số lượng phôi được tạo ra ngay từ đầu. Điều này có thể thực hiện bằng cách hạn chế số lượng noãn kết hợp với tinh trùng và đông lạnh hoặc loại bỏ các noãn chưa sử dụng. Theo quy trình hiện tại, các trung tâm vẫn đang tạo phôi từ tất cả các noãn thu nhận được (bằng phương pháp thụ tinh thông thường hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn) trong chu kỳ ART, vì hiện tại không có phương pháp nào có thể xác định số lượng noãn cần sử dụng để tối ưu hóa kết quả cho bệnh nhân. Tất nhiên, không phải tất cả các noãn kết hợp với tinh trùng đều tạo ra phôi hữu dụng và không phải tất cả các lần chuyển phôi đều dẫn đến sinh con sống.
Để đáp ứng và giải quyết tình hình hiện tại, nghiên cứu này đã phát triển một công cụ dự đoán số lượng noãn tối ưu cần sử dụng để thụ tinh với tinh trùng tạo ra phôi nhằm đảm bảo cơ hội sinh con sống đồng thời giảm thiểu phôi dư thừa.
Nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ các phòng khám thuộc Hệ thống báo cáo kết quả lâm sàng của Hiệp hội công nghệ hỗ trợ sinh sản (SART- Society for Assisted Reproductive Technology) từ năm 2014 đến năm 2019. Những bệnh nhân bắt đầu chu kỳ kích thích đầu tiên của họ trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 2014 đến ngày 31 tháng 12 năm 2019 và đã lấy được ít nhất 1 noãn đủ điều kiện để đưa vào nghiên cứu. Các chu kỳ sử dụng noãn của người hiến tặng hoặc người mang thai hộ, có ý định sử dụng hoặc đã sử dụng sàng lọc di truyền trước khi làm tổ đã bị loại trừ.
Thuật toán dựa trên 3 mô hình với kết quả: (1) Ngày chuyển phôi (ngày 3 hoặc ngày 5), (2) tỷ lệ noãn được sử dụng để tạo thành phôi nang hữu dụng (3) số lượng phôi nang cần thiết để chuyển phôi cho 1 ca sinh sống. Các yếu tố cơ sở được đưa vào chẩn đoán bao gồm nhóm tuổi của bệnh nhân nữ, vị trí địa lý của phòng khám, mức độ hormone anti-Mullerian (AMH), chẩn đoán giảm dự trữ buồng trứng và số lượng noãn được thu nhận.
Tổng cộng có 410.719 lần lấy noãn và 460.577 chu kỳ chuyển phôi từ 311.237 bệnh nhân từ 18 đến 45 tuổi bắt đầu chu kỳ kích thích trứng đầu tiên. Độ tuổi trung bình (IQR) khi bắt đầu chu kỳ kích thích là 35 (29-32) tuổi và số lượng trung bình (IQR) noãn lấy được là 10 (6-17). Các lý do phổ biến nhất cho ART là rối loạn rụng trứng (154.612 [37,6%]) và vô sinh do yếu tố nam giới (142.149 [34,6%]). Phần lớn các ca chuyển phôi (365.630 [73,2%]) diễn ra vào ngày 5 trở lên, và 167.837 (69,7%) chu kỳ chuyển phôi hoặc đông lạnh phôi nang vào ngày 5.
Nhìn chung, 43,4% số ca lấy noãn trong quần thể nghiên cứu được dự đoán là chuyển phôi vào ngày 3 và trên cơ sở đó, khuyến cáo nên cho tất cả các noãn tiếp xúc với tinh trùng. 57,6% số chu kỳ còn lại được dự đoán là chuyển phôi vào ngày 5 tiến tới giai đoạn tiếp theo để ước tính số lượng noãn tiếp xúc với tinh trùng. Trong số những bệnh nhân dự kiến chuyển phôi vào ngày 5, số lượng noãn trung bình (IQR) tiếp xúc với tinh trùng cho 1 ca sinh sống là 7 (7-8) noãn đối với những bệnh nhân dưới 32 tuổi, 8 (7-8) noãn đối với những bệnh nhân từ 32 đến 34 tuổi và 9 (9-11) noãn đối với những bệnh nhân từ 35-37 tuổi.
Ngoài ra, 196.268 (47,8%) chu kỳ chọc hút trong quần thể nghiên cứu cho thấy số noãn cần để thụ tinh ít noãn hơn số noãn lấy được. Con số này thay đổi theo độ tuổi, nhiều hơn 77.761 (80,0%) đối với bệnh nhân dưới 32 tuổi và 724 (<2,0%) đối với bệnh nhân từ 41 đến 42 tuổi. Nếu tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu sử dụng công cụ tính này, thì sẽ có ít hơn 990.394 noãn được sử dụng để thụ tinh với tinh trùng.
Các tác giả đã phát triển một trang web tương tác (https://katharine-correia.shinyapps.io/art_fert_prediction_tool/) hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân để tính toán số lượng noãn cần sử dụng theo thuật toán này. Công cụ tương tác này cũng tính đến số lượng trẻ em mong muốn có được từ một chu kỳ kích noãn duy nhất và một hoặc nhiều lần mang đơn thai bằng cách nhân dự đoán cuối cùng với số lượng trẻ em mong muốn.
Nghiên cứu này được đưa ra nhằm mục đích hạn chế số lượng phôi dư thừa được tạo ra thông qua việc kiểm soát số lượng noãn sử dụng để kết hợp với tinh trùng.Trong tương lai, việc sử dụng công cụ này sẽ mở ra hướng nghiên cứu xác định các đặc điểm của noãn để tạo thành phôi chất lượng tốt hơn, cho phép thuật toán không chỉ dự đoán số lượng noãn mà còn dự đoán noãn nào sẽ được sử dụng.
TLTK: Katharine F B Correia, Stacey A Missmer, Rachel Weinerman, Elizabeth S Ginsburg, Brooke V Rossi. Development of a Model to Estimate the Optimal Number of Oocytes to Attempt to Fertilize During Assisted Reproductive Technology Treatment. 2023 Jan 3;6(1):e2249395. doi: 10.1001/jamanetworkopen.2022.49395. PMCID: PMC9857446 PMID: 36595292
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK