Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 09-05-2025 1:13pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Quảng Thị Phước Tín - IVFMD SIH - Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn

Đông lạnh noãn là một phần của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART), ban đầu chỉ áp dụng trong các trường hợp y tế như ung thư, suy giảm chức năng buồng trứng sớm, lạc nội mạc tử cung hoặc các can thiệp y tế khác có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhu cầu đông lạnh noãn vì lý do cá nhân như: tuổi tác, trì hoãn mang thai, chưa có bạn đời phù hợp, không có mẫu tinh trùng vào ngày chọc hút hoặc lý do tôn giáo đã gia tăng đáng kể. Mặc dù được khuyến khích như một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản, nhưng thực tế cho thấy tỷ lệ bệnh nhân (BN) quay lại sử dụng noãn đông lạnh còn thấp (0% - 38%) vì những lý do như: BN đã thụ thai mà không cần đến ART, không muốn làm mẹ đơn thân hoặc quá lớn tuổi để sinh con, những lý do này gây ra sự dư thừa noãn đông lạnh và tạo nên áp lực cho các trung tâm lưu trữ.
 
Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá thực trạng sử dụng và xử lý noãn trong thực hành lâm sàng, phân tích xu hướng đông lạnh noãn, tỷ lệ sử dụng lại và kết quả xử lý noãn dư thừa trong thập kỷ qua tại hệ thống IVF Monash ở Victoria, Úc, qua đó góp phần xây dựng chính sách đông lạnh noãn hiệu quả hơn.
 
Đây là một nghiên cứu hồi cứu sử dụng dữ liệu từ 7 trung tâm thuộc hệ thống IVF Monash, phân tích toàn bộ các chu kỳ đông lạnh noãn từ năm 2012 đến 2021. Các chỉ định đông lạnh noãn được phân loại thành 3 nhóm: lý do y tế, lý do không y tế và liên quan đến điều trị. Các biến số được thu thập gồm số lượng chu kỳ, độ tuổi, thời gian lưu trữ noãn, tỷ lệ rã đông, kết quả lâm sàng và các hình thức xử lý noãn không sử dụng. Nghiên cứu cũng đánh giá sự thay đổi xu hướng theo thời gian, so sánh hiệu quả sinh sản giữa các nhóm chỉ định đông lạnh noãn khác nhau. Từ đó, bài viết đề xuất một số chiến lược nhằm cải thiện hiệu quả sử dụng noãn đông lạnh.
 
Một số kết quả ghi nhận được trong nghiên cứu
Trong 10 năm, tổng cộng có 3.082 chu kỳ đông lạnh noãn được thực hiện. Số lượng chu kỳ tăng đều qua các năm, từ 63 chu kỳ (2012) lên đến 603 chu kỳ (2021). Tỷ lệ BN đông lạnh noãn vì lý do y tế chiếm đa số (69%), không vì lý do y tế chiếm 21% và liên quan đến điều trị chiếm 10%. Độ tuổi trung bình của BN khi đông lạnh noãn từ 30–40 tuổi, và có sự thay đổi nhỏ trong độ tuổi trung bình vào năm 2012 là 58% BN >35 tuổi và tỷ lệ này giảm còn 51% vào năm 2021.

Tổng số noãn được lưu trữ tăng hơn 12 lần, từ 1.457 (2012) lên 21.809 (2022). Tính đến cuối nghiên cứu, dựa trên dữ liệu mới nhất tại thời điểm trích xuất dữ liệu vào tháng 9 năm 2022 có: 73% noãn được lưu trữ < 5 năm,  25% lưu trữ từ  5–10 năm và 2% >10 năm, những con số này cho thấy nhu cầu lưu trữ dài hạn ngày càng tăng.

Tổng cộng có 571 BN thực hiện 645 chu kỳ rã đông noãn, trong đó có 600/645 chu kỳ (chiếm 93%) là noãn đông lạnh < 5 năm (trong đó 47% noãn được đông lạnh < 6 tháng). Tỷ lệ chuyển phôi/mỗi chu kỳ rã đông là 52%. Tỷ lệ trẻ sinh sống/mỗi chu kỳ rã đông là 12%, tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn ở nhóm đông lạnh noãn không vì lý do y tế (18%) so với nhóm y tế (10%).
 
Xử lý noãn dư thừa
Trong thời gian nghiên cứu, tổng cộng có 2.800 noãn từ 286 BN đã được hủy bỏ, hiến tặng hoặc vận chuyển đến nơi khác (trong đó: 52% noãn đông lạnh được vận chuyển đi nơi khác, chủ yếu do di cư hoặc thay đổi trung tâm điều trị, có 23 BN hiến tặng 215 noãn cho BN khác, không có trường hợp hiến cho nghiên cứu và có 128 BN đã hủy bỏ 1.132 noãn (trong đó có 32% noãn đông lạnh được lưu trữ < 5 năm, 32% từ 5–10 năm và 36% > 10 năm). Đáng lưu ý, quyết định hiến tặng chủ yếu diễn ra trong 5 năm đầu sau khi đông lạnh noãn. Tỷ lệ hủy bỏ noãn tăng theo thời gian lưu trữ, đặc biệt khi gần hết hạn lưu trữ theo quy định pháp lý.
 
Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng noãn đông lạnh không tỷ lệ thuận với tỷ lệ sử dụng lại, dẫn đến tình trạng tích lũy noãn đông lạnh và các vấn đề về chi phí, không gian và quản lý lưu trữ. Mặc dù nhiều BN bày tỏ mong muốn hiến tặng noãn cho nghiên cứu nhưng những rào cản pháp lý và tiêu chí chọn lọc nghiêm ngặt khiến lựa chọn này hầu như không khả thi. Bên cạnh đó, yếu tố đạo đức, nỗi lo về danh tính di truyền và trách nhiệm có thể ảnh hưởng đến quyết định hiến tặng noãn. Điều này đòi hỏi cần có thêm nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định xử lý noãn dư thừa.
 
Một số hạn chế của nghiên cứu là không theo dõi từng nhóm BN cụ thể trong thời gian dài mà tổng hợp toàn bộ số liệu hàng năm, do đó không thể đánh giá hiệu quả sinh sản tích lũy theo từng đối tượng. Tuy nhiên, với dữ liệu lớn, nghiên cứu vẫn cung cấp bức tranh tổng thể rõ nét. Cần xem xét thiết lập khung pháp lý linh hoạt hơn về việc hiến tặng noãn, hỗ trợ tâm lý BN khi đưa ra quyết định, và khuyến khích hiến tặng thông qua hỗ trợ tài chính như hoàn phí lưu trữ.
 
Kết luận:
Nghiên cứu này làm rõ thực trạng số lượng noãn lưu trữ đang tăng nhanh trong khi tỷ lệ sử dụng lại và hiến tặng còn rất thấp. Các trung tâm ART cần chủ động xây dựng chiến lược quản lý noãn đông lạnh hợp lý, đảm bảo hiệu quả sử dụng, giảm lãng phí và hỗ trợ BN ra quyết định đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh và mong muốn cá nhân.
 
Nguồn: JOHNSTON, Molly, et al. Storage trends, usage and disposition outcomes following egg freezing. Reproductive BioMedicine Online, 2024, 48.4: 103728.

 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, thứ bảy 19 . 7 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK